THƯ VIỆN PHÁP BẢO NAMO84000

http://namo84000.com

GIỚI THIỆU KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO

GIỚI THIỆU KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO

Kinh. Nghĩa đen là sợi tơ thẳng, xuyên suốt. Sách Phật gọi là kinh, vì chúng có tác dụng xuyên suốt lời dạy của Phật, giữ vững không để mất đạo lý của Phật dạy, trên thì phù hợp với đạo lý, dưới thì phù hợp với trình độ người nghe.

Kinh Phật sở dĩ gọi là khế kinh, vì chúng khế hợp với đạo lý do Phật dạy, đồng thời cũng khế hợp với căn cơ người nghe.

Kinh Phật thường bắt đầu bằng các chữ “Như thị ngã văn” (như vậy tôi nghe). Tôi ở đây, chỉ ông A Nan, người trực tiếp nghe lời Phật và thuật lại. Câu ấy xác nhận lời trong kinh chính là lời Phật nói.

Ba tạng kinh điển gồm có: Kinh tạng, ghi lại những lời Phật dạy; Luật tạng, ghi lại những giới luật làm khuôn phép sinh hoạt và tu học cho tu sĩ; Luận tạng, gồm các bộ luận do các luận sư, đệ tử Phật trình bày, giải thích một cách có hệ thống và theo chiều sâu giáo lý đạo Phật.

Các bài thuyết pháp của đức Phật được sưu tập lại là Kinh. Toàn bộ Kinh Phật hợp lại thành Tạng Kinh (S. Sutrapitaka).

Kinh tạng Pali của Phật giáo Nam tông gồm có năm sưu tập lớn:

Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya), bao gồm những bài thuyết pháp dài.Trung Bộ Kinh (Majjiima Nikaya) bao gồm những bài thuyết pháp dài trung bình.

Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya), bao gồm các bài thuyết pháp được sắp xếp theo đề tài.

Tăng Chi Bộ Kinh, (Anguttara Nikaya), bao gồm các bài kinh sắp xếp theo pháp số. Ví dụ những bài kinh nói về một pháp, nói về hai pháp, v..v..

Tiểu Bộ Kinh (Khuđaka Nikaya), bao gồm 15 bộ kinh xưa nhất, trong đó có cuốn kinh Pháp Cú (Dhammapada) rất nổi tiếng, thường được xem như cuốn Thánh kinh Phật giáo.

Toàn bộ Kinh tạng Nam Tông đã được dịch từ chữ Pali sang tiếng Việt và đã được xuất bản nhiều lần. Nay cũng đang sửa soạn cho vào dĩa nhựa CD-ROM.

Phật giáo Bắc Tông nghiên cứu các Kinh Đại Thừa, trong đó những bộ quan trọng nhất đã được dịch từ chữ Sanskrit sang chữ Hán:

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Pundarika sutra)
Kinh Kim Cang (Vajara Sutra)
Kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn
Kinh Đại Bát Niết Bàn
Kinh Lăng Nghiêm
Kinh Viên Giác
Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh
Kinh Duy Ma Cật (Vimalakirti Sutra)
Kinh A Di Đà (Amitabha Sutra), v..v..

Các Kinh điển nguyên thủy bằng chữ Sanskrit gồm có các bộ A Hàm (Agamas) như Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tăng Nhất A Hàm, và Tạp A Hàm (tương đương với các bộ Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, Tương Ưng Bộ Kinh, Tăng Chi Bộ Kinh, và Tiểu Bộ Kinh thuộc văn hệ Pali).

Danh từ “Kinh Điển” chỉ kinh Phật nói chung, kể cả Luật tạng và Luận tạng.

17/03/2010 Posted by | c) PHẬT HỌC TỔNG QUÁT | Bình luận về bài viết này

phattuvietnam.net: THEO ĐẠO PHẬT, CHÚNG TA ĐƯỢC GÌ ?

Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp. Mà phá chấp tức là phá mê. Phá mê (tức ra khỏi cơn mê) là sáng suốt. Mà sáng suốt là giải thóat. Ý nghĩa giải thóat là như thế.

Thế giới bây giờ đang trải qua thời kỳ đa tôn giáo, tức là thời kỳ độc quyền tôn giáo đã chấm dứt. Vì đa tôn giáo như thế cho nên một số tôn giáo đang cạnh tranh ráo riết để tăng trưởng số tín đồ của mình giống như các công ty thương mại cạnh tranh ráo riết để bán hàng.

Nếu chúng ta chịu khó vào website của một vài tôn giáo chúng ta sẽ thấy thống kê số tín đồ tân tòng mỗi năm được đưa ra như một bằng chứng cụ thể chứng tỏ tôn giáo của mình là tôn giáo tốt đẹp, mỗi ngày mỗi đựơc nhiều người tin theo, giống như các công ty thương mại trình bày số thương vụ mỗi năm để chứng tỏ công ty của họ thành công và càng ngày càng được công chúng ưa chuộng.

Tuy nhiên thời đại bây giờ trí tuệ con người mở mang rất nhiều. Cuộc cách mạng về thông tin và phương tiện giao thông tiến bộ làm cho thế giới nhỏ lại và con người hiểu biết nhau nhiều hơn. Quyền thông tin, trao đổi tư tưởng, trình bày sự thực của lịch sử, quyền tự do tư tưởng không một quyền lực nào có thể ngăn cản được.

Sự cáo chung của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc, sự độc lập của các quốc gia – dù là quốc gia nhỏ bé khiến cho tiếng nói nào cũng được mọi người lắng nghe hoặc phải lắng nghe. Mọi người đều bình đẳng, mọi quốc gia đều bình đẳng, mọi tôn giáo đều bình đẳng. Đã qua rồi thời kỳ áp đặt, khống chế, lừa mị, che dấu.

Đạo Phật ra đời cách đây hơn 2500 năm giữa lúc Bà La Môn hay Ấn Độ Giáo cực thịnh tại Ấn Độ. Khi Đức Phật tại thế và sau khi Đức Phật nhập diệt một thời gian ngắn- là thời kỳ vàng son của Phật Giáo do chủ trương bình đẳng xã hội, muôn lòai chúng sinh đều bình đẳng, không van vái thần linh mà dùng Trí Tuệ và Từ Bi (thông qua Thập Thiện, Bát Chánh Đạo, Lục Hòa v.v.. để giải quyết mọi vấn đề của xã hội và con người.

Sau đó Đạo Phật lan rộng, về phía Bắc tới Tây Tạng. Về phía Nam tới Tích Lan, về Đông Á tới A Phú Hãn (Afghanistan) về phía đông tới Mông Cổ, Trung Hoa rồi Triều Tiên, Nhật Bản. Về Đông Nam Á tới Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam.

Tại Việt Nam, theo Kiêm Đạt trong Đạo Phật Ngày Nay Thành Luy Lâu là toà thành đầu tiên tại Tỉnh Bắc Ninh mà Phật Giáo từ Ấn Độ đã truyền bá sang trên phần đất Giao Chỉ. Vào thế kỷ thứ II trước Tây Lịch, những đoàn buôn Ấn Độ đầu tiên đã đến buôn bán tại Luy Lâu; đi theo họ còn có những tăng lữ Phật Giáo”.

Có thể nói Đạo Phật từ Ấn Độ truyền bá đi khắp nơi bằng con đường hòa bình. Điều đó có nghĩa là Phật Giáo không đến các xứ bằng con đường chinh phạt hoặc lùng kiếm thuộc địa. Chúng ta không thể tìm thấy trong bất kỳ giáo hội Phật Giáo của các quốc gia theo Phật Giáo nào một tổ chức gọi là “Phái Bộ Truyền Giáo” để thiết lập kế hoạch đem Phật Giáo ra nước ngòai.

Phật Giáo cũng không liên kết với bất cứ một đế quốc nào, một siêu cường nào, một quốc gia hùng mạnh nào để bành trướng. Phật Giáo truyền đến các nơi khác nhờ một số thương buôn Ấn Độ hoặc một số vị sa môn “xuất dương” đến tu hành tại một quốc gia nào đó.

Do đức độ tỏa sáng, lâu rồi vua, quan, dân chúng địa phương tin theo vị sa môn này rồi họ tự động truyền bá Phật Giáo hoặc cho phép truyền bá trong quốc gia họ.

Tuy nhiên sau khi Đức Phât nhập diệt, Phật Giáo từ từ suy tàn ngay trên quê hương mình. Theo một số học giả nghiên cứu về Phật Giáo thì chính Ấn Độ Giáo và những cuộc xâm lăng của Hồi Giáo sau này đã là nguyên ủy nói trên.

Hồi Giáo khi tiến vào Ấn Độ đã triệt hủy cả Ấn Độ Giáo lẫn Phật Giáo. Rồi sau khi Đức Phật nhập diệt, Phật Giáo không còn được các vua quan Ấn Độ ưa chuộng nữa bởi vì nó làm chướng ngại cho chủ trương phân chia giai cấp.

Theo kinh điển Ấn Độ Giáo, giai cấp cùng khổ/tiện dân (Untouchables) không thể nào bình đẳng với các giai cấp khác. Cho tới ngày hôm nay, mặc dù thế giới tiến bộ như thế, việc nâng cao thân phận xã hội của tầng lớp tiện dân Ấn Độ vẫn gặp phải những chống đối mãnh liệt, ngay cả trong các đại học là nơi được giảng dạy những tư tưởng tiến bộ nhất.

Còn tại những nơi khác trên thế giới, số phận của Phật Giáo cũng thật hẩm hiu. Sự bột phát của Chủ Nghĩa Thực Dân, chủ nghĩa đem pháo thuyền đi xâm lăng, săn lùng thuộc địa để làm giàu cho “mẫu quốc” của các đế quốc hùng mạnh Âu Châu đã là một thảm họa cho nhân lọai trong đó có Phật Giáo.

Hầu như không một quốc gia “phi Âu Châu” nào thóat khỏi thân phận nô lệ! Tại các quốc gia nô lệ, văn hóa bản địa bị triệt hủy. Tôn giáo bản địa nếu còn sống sót thì cũng phải nép mình vào làng quê, hang cùng ngõ hẹp, thôn xóm hẻo lánh để tồn tại. Ít ra trong một thế kỷ, tại Việt Nam, Đạo Phật đã bị những ông bà thực dân miệt thị như là một thứ “mê tín dị đoan, thờ cúng Quỷ Thần” và dĩ nhiên là rất “lạc hậu” và cần phải đào thải.

Thế nhưng với thời gian, theo Luật Vô Thường, dòng đời đã biến đổi. Giờ đây rất nhiều trí thức Âu Châu đã tôn sùng Đạo Phật. Liên Hiệp Quốc cũng đã công nhận Lễ Vesak – kỷ niệm cùng lúc ngày Đản Sanh/Thành Đạo/ và Nhập Diệt của Đức Phật là ngày lễ quốc tế (Vesak Day).

Ngày 15 tháng 7 năm 2009, Tribune de Geneve (Diễn Đàn Geneve) Hội Liên Minh Quốc Tế Tiến Bộ Tôn Giáo Và Tâm Linh (ICARUS) tại Geneve đã ban tặng Cộng Đồng Phật Giáo năm nay “Giải Thưởng Tôn Giáo Tốt Nhất Thế Giới”. Tại Hoa Kỳ, nếu bạn đến Thành Phố Berkeley- California, bạn sẽ gặp rất nhiều các giáo sư các nhà trí thức tiêu biểu cho trí thức Hoa Kỳ mà họ là đệ tử của Đức Phật.

Một số tài tử nổi tiếng của Holywood, ca sĩ nổi tiếng của Hoa Kỳ, ngôi sao bóng tròn của Ý như Bagio v.v… họ cũng đều là Phật Tử.

Mới đây nhất nhà sư Thomas Dyer – một cựu truyền giáo Baptist đã trở thành sĩ quan Tuyên Úy Phật Giáo lần đầu tiên trong Quân Đội Hoa Kỳ và sẽ được cử sang Iraq để phục vụ nhu cầu tâm linh cho binh lính Hoa Kỳ vốn là Phật tử tại đây.

Dĩ nhiên các nhà trí thức này, các siêu sao màn bạc, các ca sĩ nổi danh tiền kiếm bạc triệu và cả nhà truyền giáo Baptist kia …họ không theo Đạo Phật vì cơm áo, mà họ đi tìm sự giải thóat tâm linh hoặc một đời sống thỏai mái hơn về tâm hồn mà họ không tìm thấy nơi tôn giáo cũ mà họ đã theo.

Nói Giải Thóat Tâm Linh là nói chung chung, khái quát vậy thôi. Nội dung của nó còn bao hàm rất nhiều những đức tính cao quý, những phẩm hạnh tốt đẹp, những tư tưởng tốt lành, những hành vi nhân đạo, những suy nghĩ hiền hòa, chân thật, những hành vi lợi lạc cho mình cho người, những an vui của tâm hồn mà con người lúc nào cũng mong vươn tới, khắc khỏai vươn tới từ mấy ngàn năm nay.

Chắc chắn khi theo Đạo Phật bạn sẽ có. Tất cả những tình cảm, tư tưởng tốt lành đó sẽ hằng trụ trong bạn, sẽ đi theo thần thức của bạn khi bạn qua đời. Vĩnh viễn không thể nào mất được. Đó là các điều tốt lành dưới đây:

1) Tư tưởng của bạn được giải phóng:

Tư tưởng được giải phóng có nghĩa là bạn không bị trói buộc bởi bất cứ tín điều, tư tưởng, quan điểm, chủ nghĩa và sự cấm kỵ nào. Không có một tư tưởng nào là tư tưởng cấm kỵ trong Đạo Phật. Nếu vũ trụ rộng lớn như thế nào thì tư tưởng của bạn bao la (vô biên xứ) như thế.

Nếu chim và mây trên trời có thể bay lượn tự do thì sự tự do tư tưởng của bạn cũng như thế. Phật Giáo không buộc bạn phải tôn thờ bất cứ lời răn dậy nào. Phật Giáo từ chối đầu óc cuồng tín và giáo điều cực đoan. Lời Phật dạy giống như một viên thuốc, một bài thuốc, một phương thuốc hay. Nếu bạn không uống thì uổng phí vì BỆNH không hết. Chỉ có thế.

Nếu bạn không tin Phật, bạn chẳng bị trừng phạt hay bị đày xuống hỏa ngục. Nhưng nếu bạn làm điều xấu hoặc điều ác thì chính tâm hồn bạn đang bị vây hãm trong Hỏa Ngục mà bạn không biết. Quan niệm Phá Chấp là quan niệm độc đáo của Đạo Phật. Ngay trong cuộc sống hằng ngày nếu bạn chịu khó “Phá Chấp” một chút thì cuộc đời bạn cũng thanh thản, bớt phiền não đi rất nhiều.

Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp. Mà phá chấp tức là phá mê. Phá mê (tức ra khỏi cơn mê) là sáng suốt. Mà sáng suốt là giải thóat. Ý nghĩa giải thóat là như thế.

Những ai đã từng ở tù hẳn biết ngục tù khổ đau như thế nào. Thế nhưng ngục tù tư tưởng còn khổ đau gấp bội. Theo tinh thần của Phật Giáo thì tẩy não, nhồi sọ, nhồi nhét tư tưởng là nô lệ hóa con người và biến con người thành tù nhân để sai khiến. Nếu muốn tìm hiểu tinh thần phá chấp bạn có thể tìm đọc hai bộ kinh Kim Cang và Bát Nhã.

2) Bạn không còn phải sợ hãi thần linh nữa:

Như đã nói ở trên Đạo Phật là đạo của trí tuệ. Khi dùng trí tuệ soi rọi thì vũ trụ này là do nhân duyên tạo thành. Thân xác của chúng ta đây cũng là sự hòa hợp của Ngũ Uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Những việc làm đang diễn ra hằng ngày là do chính chúng ta quyết định. Khổ đau và hạnh phúc của chúng ta do chính ta hoặc tha nhân gây tạo chứ Quỷ Thần không thể can dự vào được.

Cái chết là luật tự nhiên không phải do quỷ thần hoặc Nam Tào, Bắc Đẩu xóa sổ. Nếu bạn không đồng ý với những gì nói ở trên và cho rằng tất cả những khổ đau và hạnh phúc này là do Thần Linh gây tạo hoặc ban phát thì tại sao bạn tha thiết cầu nguyện thần linh suốt cả cuộc đời mà khổ đau của bạn vẫn không hết? Cầu nguyện tới bao giờ mới vừa lòng thần linh?

Bao nhiêu thiên tai, bao tai nạn khủng khiếp, bao cuộc chiến tranh tàn bạo do ai gây ra? Do con người hay do một đấng thần linh nào đó vì phẫn nộ với loài người gây ra? Sự cầu nguyện có làm bớt thiên tai, dịch họa, chiến tranh, khổ đau của con người không?

Phật Giáo phủ nhận sự hiện hữu của thần linh trong cuộc sống của con người. Phật Giáo chủ trương chính Con Người phải giải quyết những vấn đề như chiến tranh hay hòa bình, hạnh phúc hay khổ đau của chính mình. Khi hiểu được như thế, khi đã liễu ngộ được như thế bạn không còn phải sợ hãi thần linh, tôn thờ thần linh, van vái và cầu xin ở thần linh nữa.

Trong hầu hết các cuộc thuyết pháp, Đức Phật đề cập rất nhiều đến Trời, Quỷ, Thần, Thiên Long Bát Bộ v.v..Tuy nhiên, theo Kinh Phật thì Trời, Quỷ, Quỷ Thần, Thiên Long Bát Bộ không liên hệ chi đến cuộc sống của con người. Họ không phải là thần linh tối thượng quyết định vận mạng của con người. Trời, Quỷ, Thần, Thiên Long Bát Bộ cũng quay đảo trong vòng luân hồi, cũng đầy rẫy phiền não, cũng bị quy luật Sinh, Lão, Bệnh, Tử chi phối.

Còn về Phạm Thiên (Brahma) là vị mà người đời lúc bấy giờ coi như “bậc Toàn Thắng, Toàn Tri, Nguời Cầm Quyền Đinh Đọat, là Giáo Chủ, là người Sáng Tạo, là Tạo Hóa, là Chúa Tể, là Cha của những chúng sanh đã, đang và sẽ ra đời.” (*)

Đức Phật đã giảng dạy như sau “Như vậy, chính do ý muốn và sự tạo tác của đấng Tối Cao mà con người trở thành sát nhân, trộm cắp, tà dâm, giả dối, phỉ báng, thô lỗ, nhảm nhí, thèm thuồng, khao khát, hiểm độc, tinh quái, và hiểu biết sai lầm. Do đó đối với người chủ trương thần linh là nguyên nhân chính yếu của tất cả những điều ấy thì con người sẽ không còn ý muốn, hoặc cố gắng, cũng không thấy sự cần thiết để làm, hoặc tránh không làm những hành động ấy.” (*)

Và trong Túc Sanh Truyện (Maha Bodhi Jataka), Đại Bồ Đề, Bố Tát phê bình giáo lý chủ trương rằng mọi việc đều do đấng Tối Cao tạo nên như sau: “Nếu có một thần linh tòan quyền ban phước hay gieo họa cho tạo vật đã được chính ngài tạo ra, và cho chúng nó những hành động tốt hay xấu, vị thần linh ấy quả thật đầy tội lỗi. Con người chỉ thừa hành ý muốn của ngài.” (*)

3) Khi phát huy hết năng lực của Trí Tuệ, không còn bi lụy, khóc than, cầu xin, van vái, qụy lụy ai , bạn là người Tự Lập và Độc Lập:

Khi đó bạn trở về với tự ngã, phát huy hết tiềm năng của nội tâm. Lúc đó bạn sẽ thấy thấu suốt bản thể của Vũ Trụ, Sự Sống, Sự Chết, Hạnh Phúc và Khổ Đau và lòng bạn lắng yên như bể cả. Khi tâm hồn của bạn đã lắng yên tức đi vào trạng thái Định. Trạng thái này sẽ khiến bạn cảm thấy thơ thới, hân hoan tức là cảnh giới an nghỉ tuyệt đối của tâm hồn gọi là Niết Bàn (Nirvana).

Tuy nhiên có hai lọai niết bàn – đó là Hữu Dư Niết Bàn và Vô Dư Niết Bàn. Chỉ có các chư Phật mới có thể chứng tới Vô Dư Niết Bàn. Còn như chúng ta thì chỉ có thể chứng tới Hữu Dư Niết Bàn bởi vì còn có những phiền não rất vi tế mà chúng ta chưa đọan diệt hết.

4) Bạn bình đẳng với muôn loài.

Thể tính của bạn là thể tính Phật, bạn có thể trở thành Phật. Tôi có thể cam đoan với các bạn rằng không có một tôn giáo nào mà vị giáo chủ lại nói rằng Thể Tính của vị giáo chủ ngang bằng với Thể Tính của tín đồ và nếu chịu tu tập thì tín đồ cũng đạt được ngôi vị của giáo chủ. Đây là tính độc đáo và hi hữu của Phật Giáo.

Chính vì thế khi ứng dụng quan niệm này vào xã hội thì trong một xã hội thuấn nhuần tinh thần Phật Giáo sẽ không có giai cấp, không có nạn kỳ thị chủng tộc, không có Phật tử giàu sang và Phật tử nghèo hèn. Cũng không có Phật tử thông minh và Phật tử ngu độn.

Từ vua quan đến thứ dân, tiện dân, Phật đều đối xử như nhau. Tất cả đều bình đẳng trước mắt Phật. Khi bạn lễ Phật là lễ lạy, cung kính cái Phật Tánh trong con người mình, là bạn cung kính tất cả những phẩm hạnh cao quý vốn có trong con người bạn nếu được phát huy.

Nó không phải là sự quỳ lạy thần linh bình thường như nhiều người không biết hoặc hiểu lầm. Khi chúng ta gặp nhau, chúng ta chắp tay xá và miệng nói “A Di Đà Phật” là chúng ta kính trọng những đức tính tốt lành trong con người của nhau, chúng ta cầu chúc cho nhau được sống ở Đất Thanh Tịnh, Quốc Độ Thanh Tịnh (Tịnh Độ) của Phật A Di Đà.

5) Bạn sẽ là quán quân trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ thú vật do lòng Từ Bi:

Tôi có thể thưa với bạn rằng không có kinh điển của một tôn giáo nào trên thế giới lại nói nhiều về loài vật như kinh Phật. Thảng hoặc nếu có đề cập tới thì chỉ coi lòai vật như một thứ do Thần Linh tạo ra để làm thực phẩm cho lòai người trong các bữa ăn và cúng tế Thần Linh. Nhưng Đức Phật thì không thế.

Ngay trong thời kỳ còn ở trong cung vàng điện ngọc, Thái Tử Sĩ Đạt Ta đã có lòng từ tâm đối với những lòai thú vật đáng thương. Truyện kể rằng Hòang Tử Đề Bà Đạt Đa đưa cây cung lên bắn một con chim. Con chim không chết mà chỉ bị thương và sa xuống sân của thái tử. Thái Tử Sĩ Đạt Ta đã chạy ra, ôm con chim vào lòng và chữa vết thương cho nó.

Lúc đó vị hòang tử chạy tới và đòi lại con chim nhưng Thái Tử Sĩ Đạt Ta nhất quyết không trả lại. Hai bên tranh luận và sự việc tới tai Đức Vua Tịnh Phạn. Hòang Tử Đề Bà Đạt Đa nói rằng con chim do hòang tử bắn cho nên nó phải thuộc về hòang tử. Còn thái tử thì cho rằng vị hoàng tử khi giương cây cung bắn con chim là muốn một con chim chết. Nay con chim vẫn còn sống và thái tử lại bảo vệ mạng sống cho nó cho nên con chim phải thuộc về thái tử.

Đức vua nghe nói động lòng từ tâm và phán quyết là con chim thuộc về Thái Tử Sĩ Đạt Ta. Trong suốt cuộc đời hành đạo, Đức Phật thường dùng những truyện kể về đời sống của những lọai thú vật để làm chuyện ngụ ngôn giảng dạy đạo đức và tình thương. Nếu quý vị và nhất là các em nhỏ muốn biết những chuyện hấp dẫn và đầy ý nghĩa đạo đức này có thể đọc cuốn Prince Goodspearker (Hoàng Tử Thiện Ngôn) do Todd Anderson sưu tầm và dịch ra Anh Ngữ xuất bản bởi Amitabha Buddhist Society of NY Inc. năm 1995.

Chính vì lòng xót thương lòai vật như thế mà Đức Phật chủ trương ăn chay, không ngòai mục đích đề cao “đức hiếu sinh”. Cấm sát hại sinh linh là một trong những giới luật hàng đầu của Đạo Phật. Tuy nhiên một số vị sa môn đã ăn mặn, nguyên do là vì xưa kia trong khi đi khất thực, thí chủ cho đồ mặn. Để tôn trọng thí chủ, các vị đã theo nguyên tắc “cho gì ăn nấy”.

Tuy nhiên việc ăn mặn này không làm tổn hại đến phẩm chất đạo đức bởi vì các vị không bao giờ nhúng tay vào việc nuôi súc vật cũng như giết súc vật để làm thực phẩm. Ngày nay vấn đề Ăn Chay để bảo vệ súc vật đã trở thành một trào lưu lan rộng khắp thế giới. Có thể những vị này không phải là Phật tử, nhưng khi hành động như thế, các vị đã đi đúng con đường mà Đức Phật giảng dạy cách đây hơn 2500 năm.

Mới đây Brigitte Bardot – cô đào hở hang lừng danh Pháp của thập niên 1950 cũng đã kêu gọi tổng thống Pháp công nhận một Ngày Ăn Chay để bảo vệ súc vật. Bà Brigitte Bardot còn công kích cô đào văm Sophia Loren là đã mặc áo lông thú tức là cổ vũ cho sự giết hại lòai vật để làm trang phục cho phụ nữ.

Còn vấn đề môi trường. Trước hết Đức Phật sinh ra dưới cây Vô Ưu của Vườn Lâm Tỳ Ni. Khi đắc đạo, ngài ngồi dưới cội bồ đề. Trong suốt thời gian 45 năm hành đạo, Đức Phật thuờng thuyết pháp tại những khu rừng, vườn, như Lộc Uyển (Vườn Nai), Trúc Lâm (Vườn Trúc), Kỳ Viên, Núi Linh Thứu v.v.. Nơi nhập diệt của ngài là rừng Sa La Song Thụ.

Trong những bài thuyết pháp Đức Phật đề cập rất nhiều đến chim muông, cây cỏ, hoa trái, tán dương núi rừng là nơi ẩn tu lý tưởng cho các vị A La Hán cho nên có thể nói cả cuộc đời của ngài gần gũi với thiên nhiên. Trong đời sống của chính mình và của chư tăng, ngài chủ trương tiết kiệm và quý trọng vật cho của thí chủ. Do đó nếu theo Phật, lòng Từ Bi của các bạn sẽ dễ dàng được thể hiện qua lòng yêu mến thú vật và môi trường thiên nhiên và đây đang là một trong những giá trị của thời đại.

6) Giàu có bạn cũng sung sướng. Nghèo túng bạn vẫn vui. Nghĩa là bạn sẽ vui vẻ trong mọi hòan cảnh:

Thưa bạn: Một trong những nguyên nhân làm khổ còn người là lòng Tham: Tham của, tham tiền, tham sắc, tham quyền, tham danh vọng. Vì có lòng Tham cho nên không khi nào thấy đủ, không thỏa mãn với những gì mình đang có. Một ông triệu phú mà có lòng tham thì thấy bạc triệu vẫn chưa đủ và phải kiếm nhiều hơn nữa. Mà khi tham như thế thì đầu óc không còn sáng suốt, dễ dàng làm điều phi pháp, phi đạo đức để đưa đến tù tội. Có thể nói một phần không nhỏ những người đang phải chịu cảnh tù đày ngày hôm nay, nguyên do chính là vì lòng tham.

Cuộc khủng hỏang tài chính cuối năm 2008 tại Hoa Kỳ không phải do người Mỹ quản trị kém mà một trong nguyên nhân chính là lòng Tham. Vì tham cho nên các công ty tài chánh, công ty đầu tư, các công ty bán cổ phần đã tìm cách lường đảo khách hàng khiến cho tổng thống Hoa Kỳ khi ban bố biện pháp cứu nguy đã phải thốt lên “Shame of you!” (Thật xấu hổ cho các ông).

Lòng tham còn đưa tới nhiều đau khổ, tội lỗi khác và còn kéo dài kiếp này sang kiếp khác. Chính vì nhìn thấu rõ Tập Đế (Nguyên Do Của Khổ Đau) của con người là Tham-Sân-Si cho nên Đức Phật đã giáo huấn đệ tử là phải nỗ lực diệt trừ nguồn Tam Độc này.

Tuy nhiên tới đây bạn có thể hỏi: Tham-Sân-Si vốn gắn chặt với bản chất của con người. Chính vì có Tham-Sân-Si mà con người mới tiến bộ như thế này. Diệt trừ Tham-Sân-Si có nghĩa là con người trở nên ù lì, không làm gì cả sao? Thưa bạn, xin bạn đừng lo, chỉ có chư Phật, Bồ Tát, A La Hán, Thánh Tăng mới có thể đọan trừ hết Tham-Sân-Si. Còn bình thường như bạn và tôi thì kiềm chế được Tham-Sân-Si đã là giỏi lắm rồi.

Trong suốt thời gian 45 hành đạo, Đức Phật đã hóa độ cho tất cả mọi thành phần xã hội, từ vua, quan, quan đại thần, binh sĩ, trí thức, thương buôn giàu có, tiện dân và kể cả những băng đảng giết người. Tà ma ngọai đạo đến quy phục ngài không thiếu. Đức Phật không bao giờ khuyên họ cứ ù lì, chấp nhận thân phận hiện tại.

Dĩ nhiên chúng ta không thể chuyển nghiệp tức là chuyển hóa thân phận của mình bằng con đường phi đạo đức. Đức Phật cũng thế, ngài dạy chúng ta phải chuyển nghiệp bằng con đường tốt lành chẳng hạn phải thực hành Bát Chánh Đạo hoặc Thập Thiện, chứ có bao giờ Đức Phật bảo một người ăn mày cứ tiếp tục chấp nhận thân phận của một kẻ ăn mày đâu?

Thưa bạn trong lúc bạn thất vọng não nề, chán nản cùng cực hoặc căng thẳng đầu óc để toan tính một việc làm nguy hiểm gì đó khiến bạn muốn điên lên. Nếu bạn chợt dừng lại và truy cứu xem nguyên do của những cái nói trên (Phật Giáo gọi là Khổ Đau & Phiền Não) có phải là Tham-Sân-Si không?

Nếu bạn quán xét được như thế thì tự nhiên đầu óc bạn bớt căng thẳng, lòng bạn trùng xuống, hơi thở bạn trở nên điều hòa. Bạn như người đang nóng bức, khát nước được uống một ly nước dừa tươi mát mà Phật Giáo gọi là Cam Lồ Giải Thóat tức là (nước uống ngọt ngào làm tiêu đi mọi phiền não).

Lúc đó bạn có cảm tưởng vừa ra khỏi cơn ác mộng từ đó lòng bạn thơ thới hân hoan, đầy đủ sáng suốt, thanh thản để giải quyết chuyện đời trong điều kiện tốt lành, cho chính bạn, gia đình bạn và cho người. Bạn cứ thử xem sao.

7) Bạn không xâm hại ai, chiếm đọat của ai, sống an vui với tất cả mọi người. Bạn là quán quân góp phần vào việc giữ gìn hòa bình thế giới:

Thưa bạn: Đạo Phật không phải là đạo chú tâm vào cầu nguyện, van vái. Tụng kinh, niệm Phật, ăn chay là một trong những phương tiện/trợ duyên để giúp người ta làm lành, lánh dữ, tu sửa tính tình, khiến tâm địa bình ổn, gieo trồng căn lành rồi từ từ chuyển hóa tâm thức.

Hằng hà sa số chư vị, bồ tát, thánh tăng, thiền sư với trí tuệ dũng mãnh thông qua Thiền Định cũng đã chuyển hóa tâm thức nhanh chóng và chứng quả vị mà không cần tụng kinh niệm Phật. Tuy nhiên dù là cư sĩ, tu sĩ, thánh tăng, bồ tát, a la hán muốn chứng đựơc quả vị nói trên tức muốn giải thóat cũng phải thực hành Bát Chánh Đạo, Thập Thiện và Lục Hòa. Bát Chánh Đạo (Eightfold Path) gồm có: Right View (Chánh Kiến), Right Thought (Chánh Tư Duy), Right Speech (Chánh Ngữ), Right Action (Chánh Nghiệp), Right Livehood (Chánh Mệnh), Right Effort (Chánh Tinh Tấn), Right Mindfullness (Chánh Niệm) và Right Contemplation (Chánh Định).

Rồi Thập Thiện thì gồm có: Không Sát Sinh, Không Trộm Cắp, Không Nói Dối, Không Nói Lời Thêu Dệt, Không Nói Lời Hai Chiều (đâm thọc, lúc rày lúc khác), Không Nói Lời Hung Ác, Không Tham Muốn, Không Nóng Giận và Không Si Mê. Còn Lục Hòa thì gồm có: Thân Hòa Đồng Trú, Khẩu Hòa Vô Tranh, Ý Hòa Đồng Duyệt, Giới Hòa Đồng Tu, Kiến Hòa Đồng Giải và Lợi Hòa Đồng Quân.

Thưa bạn trong cuộc sống rất phiền phức và căng thẳng ngày hôm nay, chỉ cần chúng ta ứng dụng ba chỉ dẫn Chánh Kiến, Chánh Ngữ và Kiến Hòa Đồng Giải không thôi – thì xã hội sẽ bớt đi rất nhiều những lời lăng nhục, chửi bới, bóp méo, chụp mũ đang diễn ra hằng ngày và thế giới sẽ trở thành một diễn đàn hòa bình để cùng nhau thảo luận trong tương kính những vấn đề bức thiết của con người. Nếu bạn có giải pháp nào tốt lành hơn, xin bạn cứ nói ra.

8) Bạn không thấy cuộc đời này là nhàm chán, vô vị. Chắc chắn bạn yêu mến cuộc sống, nhưng cũng không sợ Chết:

Thưa bạn: Buồn chán (boring/depressed) là một trong những căn bệnh tệ hại của kiếp người. Không phải chỉ những người nghèo khổ mới buồn chán mà cả hàng quí tộc, vương tôn công tử, vua quan, trí thức, văn nghệ sĩ, tỉ phú cũng buồn chán. Kể cả lứa tuổi hoa niên cũng buồn chán và đưa tới việc tự sát.

Bản nhạc Bonjour Tristesse (Buồn Ơi Chào Mi) chứng tỏ điều này. Thật lạ lùng khi thấy tài tử ci-nê, ca sĩ nhạc Pop nổi danh khắp hòan vũ, hình ảnh được hằng triệu người mua, thêu trên áo và tôn thờ như thần tượng, những celebrities này sống sung sướng trong những dinh thự tráng lệ, kẻ hầu người hạ, người tình (boy friend/girl friend) không thiếu, thế mà họ cũng buồn chán.

Cái chết của cô đào Marilyn Monroe và ca sĩ Michael Jackson mới đây cho thấy những vị này đã chết là vì buồn chán, vì thấy cuộc đời vô vị. Nhưng cũng thật lạ lùng là những vị sư, ni cô, thiền sư, đời sống đạm bạc, ẩn dật trong những ngôi chùa, tu viện thì họ chẳng bao giờ phải uống thuốc ngủ, hoặc tự tử vì buồn chán cả.

Tạo sao thế? Bởi vì những vị này, qua lời giáo huấn của Đức Phật và do chứng ngộ bản thân, họ đã thấy tiện nghi, vật chất, của cải không phải là cứu cánh của hạnh phúc. Hơn thế nữa họ biết cách sống : Sống Trong Tỉnh Thức. Sống trong tỉnh thức là sống mà biết quý trọng sự sống, biết mình đang sống. Xin bạn hãy thử mở hết các giác quan ra, hãy lắng đọng tâm tư, hãy để cho lòng mình trùng xuống, thật nhẹ nhàng, thật êm dịu, bạn sẽ thấy:

-Tiếng gió vi vu là lúc ta chẳng phiền chẳng não.
-Trời rộng bao la là trí tuệ ta siêu việt.
-Đất dày là nghị lực và ý chí của ta chẳng thể hao mòn.
-Tiếng suối reo là tiếng lòng ta đó.
-Đại dương xanh thẳm là tấm lòng ta trải rộng với lòng quảng đại nhân từ.
-Đám mây lững lờ bay là những giấc mộng trong đời của ta chợt thành, chợt biến không ngừng.
-Chú thỏ non ngơ ngác chạy tung tăng trên thảm cỏ là những ngày thơ ấu của ta.
-Cánh chim bay lượn trên vòm trời xanh là khát vọng tự do của ta đó.
-Bão tố là lúc lòng ta sân hận.
-Tiếng sóng vỗ bờ rì rào của biển là lời ta nỉ non tâm sự với đời.
-Đàn ngựa nhởn nhơ trên cánh đồng là tinh thần ta bất khuất.
-Cả tiếng rống của loài sư tử cũng là lòng kiêu hãnh của ta ngang bằng trời đất. Ta sống ung dung tự tại và không bao giờ biết sợ sệt.

Bạn ơi, khi bước vào Đạo Phật, khi thực hành thiền quán bạn sẽ cảm nghiệm và tận hưởng được những điều thi vị nói trên. Bởi vì khi đó, bên cạnh cuộc sống vật chất này bạn còn có tâm hồn của thiền sư. Chính vì thế mà các Meditation Center đã mọc lên khắp nơi trên thế giới. Bạn hãy thử thực hành như thế một thời gian xem sao. Rồi 100 năm qua đi rất nhanh, rồi bạn sẽ từ giã cõi đời, từ giã cõi Diêm Phù Đề này.

Nhưng xin bạn đừng thắc mắc nhiều. Bạn hãy theo lời chỉ dẫn của Đức Đạt Lai Lạt Ma: Sống Hạnh Phúc, Chết Bình An (The Joy of Living and Dying in Peace). Vì trí tuệ của bạn đã mở bung ra khắp vũ trụ này, vì thần thức của bạn đã tự do, vì tâm hồn của bạn đã thể nhập vào thiên nhiên, cho nên bạn muốn vào Cung Trời nào, muốn đầu thai vào đâu, hoặc muốn trở lại đây thêm một kiếp nữa là tùy ý. Bạn khỏi phải bận tâm về cái chết.

9) Bạn là người cao thượng trong tinh thần biết giúp đỡ và an ủi người khác:

Trong suốt thời gian 45 năm hành đạo, Đức Phật không nói gì hơn là giáo huấn đệ tử và chúng sinh xây dựng Tâm Lành, Trí Tuệ Sáng Suốt và thực hiện Hạnh Bố Thí giúp đời. Ngài luôn luôn cất lời ca ngợi tất cả mọi người – từ phàm phu, kẻ nghèo khó, đến ông trưởng giả, đến các bậc đế vương, những vị ở khắp cõi Trời, Thiên Long Bát Bộ đã có công trong việc độ sinh.

Có những vị do lời Đức Phật kể lại mà đã sống bất tử với thời gian như ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát và Mục Kiền Liên Bồ Tát. Ngài Quán Tự Tại đã phát lời nguyện giúp chúng sinh vượt qua nỗi sợ hãi (Vô Úy). Nếu có chúng sinh nào đang lâm vào vòng nguy biến, binh đao, nước lửa, ngục hình, tra tấn, khủng bố v.v..nếu thành tâm niệm danh hiệu ngài, thì ngài sẽ thị hiện qua hình ảnh của Phật Bà Quan Âm mà cứu độ.

Còn ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát đã phát lời nguyện thật ghê gớm: Địa Ngục Giai Không tức là là nếu thế giới này mà còn một người ở tù thì ngài không thành Phật. Vậy những ai đang mắc vòng lao lý hãy thành tâm niệm “Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát”, chắc chắn sẽ ứng nghiệm.

Còn ngài Mục Kiền Liên Bồ Tát thì nhờ tâm chí thành cứu giúp mẹ đang bị khổ sở trong thế giới của loài quỷ đói (Ngạ Quỷ) mà được thế gian xưng tụng như biểu tượng của lòng hiếu thảo. Nếu bạn vốn sẵn lòng từ tâm, lòng hy sinh cứu đời, hạnh nguyện san sẻ tình thương với người khác, xin bạn thử bước vào Đạo Phật. Chắc chắn bạn sẽ được thỏa mãn.

Tạm Kết Luận:

Dĩ nhiên những gì tôi chia xẻ với bạn ở đây còn rất thiếu sót, thô sơ. Sau khi đã đọc xong tất cả những gì nói ở trên, dù bạn có thể đã đồng ý một phần nhưng bạn có thể còn hỏi “Tôi theo Đạo Phật, tôi theo Phật thì tôi có cơm ăn áo mặc, có thể trúng số, có thể thăng quan tiến chức, nghèo có thể trở thành giàu không?”

Xin thưa: Bạn không phải là một đứa trẻ đang khóc (ẩn dụ cho khổ đau) cần phải cần cho kẹo (dụ dỗ) mới nín (tức mới hết khổ đau). Bạn đang đói, dù bạn theo Phật, nhưng chắc chắn bát cơm không hiện ra trước mắt bạn. Nhưng vì theo Phật bạn sẽ làm lành, gieo nhân lành như thế chắc chắn bạn sẽ gặt hái được Quả Lành tức là những điều tốt đẹp trong tương lai – kiếp này hay kiếp sau.

Điều này đúng chắng sai. Cuối cùng điều bạn cần nhớ là Đạo Phật không phải là đạo đổi chác, không phải là đạo ban bố phép mầu, không phải là đạo hứa hẹn. Sự giải thóat, nguồn hạnh phúc do Đạo Phật – thực ra do chính bạn đem lại – có thể thực chứng ngay kiếp này, ngay bây giờ (here now), không phải đợi chết đi mới có.

Nó là đạo của Trí Tuệ, Từ Bi và Lòng Dũng Cảm. Đó là ba trụ cột giúp cho chúng ta thóat khỏi thân phận nghiệt ngã, cay đắng của kiếp người rồi vươn lên sống ung dung tự tại, và có ý nghĩa. Nếu bạn không tin vào Lòng Từ Bi, Lòng Dũng Cảm mà mình vốn có, không tin vào Trí Tuệ sáng suốt của mình mà chỉ muốn cầu xin, van vái thần linh để đạt hạnh phúc trong cõi đời này, bạn có thể đi tìm một tôn giáo khác.

California Tháng 11, 2009

Cước chú: Dấu (*) là lời trích dẫn từ Đức Phật và Phật Pháp của Đại Sư Narada Maha Thera (Tích Lan)do Phạm Kim Khánh dịch ra Việt Ngữ, xuất bản ở Hoa Kỳ năm 2545 (Phật Lịch) tức năm 2001 (TâyLịch)

17/12/2009 Posted by | c) PHẬT HỌC TỔNG QUÁT | 3 bình luận

MƯỜI ĐIỀU PHẬT DẠY

PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket

01/08/2009 Posted by | c) PHẬT HỌC TỔNG QUÁT, d) PHẬT HỌC VẤN ĐÁP, NAM MÔ SA BÀ GIÁO CHỦ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT (Namo the ruler of the Saha World, Sakyamuni Buddha) | Bình luận về bài viết này

PHẬT HỌC PHỔ THÔNG (TRỌN BỘ)

Phật Học Phổ Thông, Khóa Thứ Nhất:Nhân Thừa Phật Giáo
Phật Học Phổ Thông, Khóa Thứ Hai: Thiên Thừa Phật Giáo
Phật Học Phổ Thông, Khóa Thứ Ba: Thinh Văn Thừa Phật Giáo
Phật Học Phổ Thông, Khóa Thứ Tư: Duyên Giác và Bồ Tát Thừa Phật Giáo
Phật Học Phổ Thông, Khóa Thứ Năm: Lịch Sử Truyền Bá Phật Giáo
Phật Học Phổ Thông, Khóa Thứ Sáu: Triết Lý Ðạo Phật hay là đại Cương Kinh Lăng Nghiêm
Phật Học Phổ Thông, Khóa Thứ Bẩy:Triết Lý Ðạo Phật hay là đại Cương Kinh Lăng Nghiêm (TT)
Phật Học Phổ Thông, Khóa Thứ Tám: Kinh Viên Giác
Phật Học Phổ Thông, Khóa Thứ Chín: Duy Thức Học và Nhơn Minh Luận
Phật Học Phổ Thông, Khóa Thứ Mười và Mười Một: Ðại Thừa Khởi Tín Luận
Phật Học Phổ Thông, Khóa Thứ Mười Hai: Kinh Kim Cang Dịch Nghĩa và Lược Giải
Phật Giáo Dưới Mắt Nhà Trí Thức
Phật Pháp Cho Mọi Người, Diệu Liên Lý Thu Linh – Diệu Ngộ Mỹ Thanh dịch (sách)
Nguồn An Lạc, HT Thanh Từ
Những đóng góp của đạo Bụt cho nền đạo đức tòan cầu, HT. Thích Nhất Hạnh
Quy Y Tam Bảo
Nhân Quả
Luân Hồi
Sám Hối
Thâm ý qua hình tượng Phật, Bồ Tát
Tu Tâm và Dưỡng Tánh, HT. Thích Thiện Hoa
Tư Tưởng Phật Học
Tứ Diệu Đế (Mục Lục Các Bài Giảng Về Tứ Diệu Đế)
Vòng Luân Hồi, Thích Nữ Giới Hương (sách)

23/07/2009 Posted by | c) PHẬT HỌC TỔNG QUÁT | Bình luận về bài viết này

PHẬT HỌC CƠ BẢN

Nguồn: thuvienhoasen.org

Ánh Ðạo Vàng, Võ Ðình Cường (sách)
An Bình Tĩnh Lặng, Bình Anson (sách)
Bằng Tất Cả Tấm Lòng, Thích Chân Tính (sách)
Bát Chánh Đạo Con Đường Đến Hạnh Phúc, Bhante Henepola Gunaratana – Việt Dịch: Diệu Liên Lý Thu Linh (sách)
Bước Ðầu Học Phật, HT. Thích Thanh Từ (sách)
Bốn Sự Thật và 37 Phẩm Trợ Đạo, TT. Thích Đức Thắng
Cẩm Nang của Người Phật Tử, Khải Thiên (sách)
Cẩm Nang Cư Sĩ, Tâm Diệu (sách)
Cành Lá Vô Ưu, HT. Thích Thanh Từ (sách)
Căn Bản Phật Giáo, Bình Anson (sách)
Con Đường Phát Triển Tâm Linh, Thích Trí Hoằng (sách)
Cư Trần Lạc Đạo Tập 1, Cư Sĩ Chính Trực (sách)
Cư Trần Lạc Đạo Tập 2, Cư Sĩ Chính Trực (sách)
Cư Trần Lạc Đạo Tập 3, Cư Sĩ Chính Trực (sách)
Giới Thiệu Đạo Phật, Bình Anson
Con Ðường Cũ Xa Xưa (Bát Chánh Ðạo) (sách)
Cuộc Đời Của Đức Phật, Nguyên Tác Johnathan Landaw, Việt dịch: HT. Thích Trí Chơn (sách)
Cư Sĩ Giới Pháp – Tỳ kheo Giác Giới (Bodhisīla Bhikkhu) biên soạn
Đạo Phật Áp Dụng Vào Đời Sống Hàng Ngày, Thích Huyền Quang & Thích Nhất Hạnh (sách)
Đạo Phật Trong Đời Sống, Thiện Phúc (trọn bộ 10 tập)
Đạo Phật An Lạc và Tỉnh Thức, Thiện Phúc
Đức Phật và Phật Pháp, HT. Narada Maha Thera – Phạm Kimh Khánh dịch
Ðức Phật và Hào Quang Chân Lý, Dịch giả: TT Thích Giải Thông
Ðức Phật Ðã Dạy Những Gì – Hòa thượng Walpola Rahula-Thích Nữ Trí Hải dịch (1998)
Nguyên tác: “What The Buddha Taught” (Tựa đề lần xuất bản thứ nhất, 1966: “Con đường thoát khổ”)
Để Hiểu Đạo Phật, Phương Bối (sách)
Ðạo Phật Và Tuổi Trẻ, HT. Thích Thanh Từ (sách)
Hãy Đến Để Thấy – Phật Giáo, Con Đường Đưa Đến Hạnh Phúc, Ni Sư Ayya Khema, Diệu Liên Lý Thu Linh Việt dịch
Hạnh Phúc Kỳ Diệu, Thích Phụng Sơn
Hỏi Hay Đáp Đúng, Tỳ kheo Thích Nguyên Tạng dịch (sách)
Hiệu Lực Cầu Nguyện & Kinh Người Áo Trắng, HT. Nhất Hạnh (sách)
Kinh Lời Vàng, Tác giả: Dương tú Hạc, Dịch giả: HT Thích Trí Nghiêm (sách)
Lắng Nghe Tiếng Hát Sông Hằng, BS. Quách Huệ Trân (sách)
Lý thuyết & Thực tế, Bình Anson (sách)
Như Lai là bậc toàn tri, toàn giác chứ không toàn năng, Quảng Hiền
Nguồn Mạch Tâm Linh, Thích Nữ Trí Hải (sách)
Những Điểm Đặc Sắc của Phật Giáo, Tác giả: Lâm Thế Mẫn – Việt dịch:  Thích Chân Tính (sách)
Những Hạt Ngọc Trí Tuệ Phật Giáo (sách)
Nguồn An Lạc, HT Thanh Từ (sách)
Phật học căn bản, Thích Giải Hiền
Phật Học Cơ Bản Toàn Tập (sách)
Phật Học Cơ Bản Tập Một
Phật Học Cơ Bản Tập Hai
Phật Học Cơ Bản Tập Ba
Phật Học Cơ Bản Tập Bốn
Phật Học Khái Luận (sách)
Phật Học và Y Học, BS. Quách Huệ Trân – DG. Thích Tâm An (sách)
Phật Giáo và Cuộc Sống, HT. Ấn Thuận – Việt dịch: Thích Hạnh Bình (sách)
Phật Giáo Yếu Lược, Narada Thera – H.T. Thích Trí Chơn dịch (sách)
Phật Pháp Căn Bản, Thích Đức Thắng
Phật Pháp Vấn Đáp, Cư sĩ Bình An Sơn dịch (sách)
Phật Ở Trong Lòng, HT. Thích Thiện Siêu
Phật Pháp Cứu Đời Tôi, TT. Thích Chân Tính (sách)
Phá Mê Khai Ngộ, Lê Sỹ Minh Tùng (sách)
Pháp Ngữ Lục, HT. Thích Đức Niệm (sách)
Phật tử – Những Câu Hỏi Thông Thường Về Đạo Phật, Hòa thượng Thích Thiện Châu
Pháp Khí và Pháp Phục, TT. Thích Tín Nghĩa
Phật Pháp Cho Sinh Viên, Nguyên tác : Lak Dhamma Samrab Nak Seuksa của Buddhadàsa Bhikkhu bằng Thái ngữ ;
Bản dịch ra Anh văn của Rod Bucknell;Thiện Nhựt lược dịch sang Việt ngữ (sách)
Tam Pháp Ấn – Ban Hoằng Pháp GHPGVN
Tam Pháp Ấn, Thích Nguyên Tạng
Thanh Tịnh Tâm, Lê Sỹ Minh Tùng
Thử Hòa Ðiệu Sống, Võ Ðình Cường (sách)
Tu Là Chuyển Nghiệp
Thuyết Bốn Ðế, GS. Minh Chi
Thương Yêu Là Thông Cảm, Bình Anson
Thập Thiện Nghiệp Ðạo Trong Ðời Sống Tại Gia, Thượng Toạ Thích Thiện Bảo
Tích Truyện Pháp Cú, Thiền Viện Viên Chiếu – Nguyên Tác: “Buddhist Legends”, Eugène Watson Burlingame
Tin Tức Từ Biển Tâm, Lâm Thanh Huyền – Việt dịch: Minh Chi (Sách)
Tóm Tắt Căn Bản Phật Giáo, Bhikku Dhammika – Việt dịch Bình Anson
Trái Tim Của Bụt, HT. Thích Nhất Hạnh (sách)
Truyền Thọ Quy Y, Thích Chân Tính
Tu Nhà, Thích Chân Tính
Tứ Diệu Đế (Mục Lục Các Bài Giảng Về Tứ Diệu Đế)
Tứ Diệu Đế, Đức Đạt Lai Lạt Ma, Võ Quang Nhân dịch (sách)
Từ Bi đối thoại với Bác Ái, Minh Tri
Vì Sao Tin Phật
Vào Cổng Chùa, HT. Thích Thanh Từ (sách)
Ý Nghĩa Quy Y Tam Bảo, Thích Giải Hiền

23/07/2009 Posted by | c) PHẬT HỌC TỔNG QUÁT | Bình luận về bài viết này

LUẬN GIẢNG

.

nguồn : thuvienhoasen.org

Bồ Đề Tâm Ly Tướng Luận, HT. Thích Tâm Châu
Bửu Tạng Luận, Đại Sư Tăng Triệu – HT. Thích Duy Lực Việt dịch

Cu Xá Luận Lược Thích, Thích Phước Viên
Chân Như Quan Phật Giáo, Kimura Taiken -Việt Dịch: HT. Thích Quảng ĐộDuy Thức Học và Nhơn Minh Luận, HT Thiện Hoa

Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận, Kimura Taiken -Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
Đại Cương Triiết Học Trung Quán, Tác Giả: Jaidev Singh – Dịch Giả: Thích Viên Lý
Đại Cương về Luận Câu xá, HT. Thích Thiện Siêu
Đại Cương Triiết Học Trung Quán, Tác Giả: Jaidev Singh – Dịch Giả: Thích Viên Lý
Đại Trí Độ Luận, Long Thọ Bồ Tát – HT. Thích Thiện Siêu Việt Dịch
Đại Thừa và Sự Liên Hệ Với Tiểu Thừa, HT. Thích Minh Châu dịch
Đại Thừa Tuyệt Đối Luận, Nguyệt Khê Thiền Sư, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Việt Dịch
Ðại Thừa Khởi Tín Luận, Dịch Nghĩa Và Lược Giải, HT Thiện Hoa
Đại Thừa Khởi Tín Luận, Thích Nhật Từ
Ðại Thừa Khởi Tín Luận, Dịch Và Giải, Chân Hiền Tâm (sách)
Đại Thừa Luận Khởi Tín, HT. Thích Trí Quang
Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận, Kimura Taiken -Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
Đại Thừa Tập Bồ Tát Học Luận, Ngài Pháp Xứng Bồ Tát – HT. Thích Như Điển dịch

Luận Giải Trung Luận – Tánh Khởi và Duyên Khởi, Hồng Dương Nguyễn Văn Hai
Luận Về Con Đường Giải Thoát, Ngài A La Hán Ưu Ba Đề Sa – Việt dịch: Thích Như Điển
Luận Câu Xá, Thế Thân Bồ Tát, Hoa dịch: Huyền Trang, Việt dịch: Đạo Sinh

Mười Ba Phẩm Trung Quán, Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải Thích

Niết Bàn Trong Trung Quán Luận, Gs. Trần Ngọc Ninh
Nguyên Thuỷ Phật Giáo Tư Tưởng Luận, Kimura Taiken – Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
Nhân Duyên Tâm Luận Tụng, HT. Thích Tâm Châu
Nhiếp Ðại Thừa Luận, HT. Thích Trí Quang

Phật-Học Chính-Cương, HT. Thích Tâm Châu
Phát Bồ Đề Tâm Luận – Quyển thượng, Thiên Thân Bồ tát tạo luận -Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch – Qủang Minh Việt dịch (PDF) 341KB (sách)
Phủ Định Thức Và Biện Pháp Trung Quán, Tác Giả: B.K. Matilal –  Dịch Giả: Thích Viên Lý

Sự hình thành của A-Tỳ-Đạt-Ma

Thành Duy Thức Luận, Pháp Sư Huyền Trang – HT. Thích Thiện Siêu
Thắng Pháp Tập Yếu Luận, HT. Thích Minh Châu
Thành Thật Luận, HT. Thích Trí Nghiêm
Tìm Hiểu Trung Luận – Nhận Thức và Không Tánh, Hồng Dương Nguyễn Văn Hai
Tiểu Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận, Kimura Taiken – Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
Trung Luận, Bồ Tát long Thọ, Việt dịch: Thích Viên Lý
Trung Luận, Bồ Tát long Thọ, Hán Dịch: Cưu Ma La Thập – Việt dịch: Thích Nữ Chân Hiền
Trung Quán Luận, Bồ Tát Long Thọ – Thích Tịnh Ngiêm dịch hán Việt

Yếu Chỉ Trung Quán Luận, HT. Thích Duy Lực

Vi Diệu Pháp Toát Yếu, Narada Maha Thera – Phạm Kinh Khánh Việt dịch

23/07/2009 Posted by | c) PHẬT HỌC TỔNG QUÁT | Bình luận về bài viết này

TỨ VÔ LƯỢNG TÂM: TỪ – BI – HỶ – XẢ

Photobucket

http://phattuvietnam.net/

TỪ

Trong mỗi chúng ta có bốn người bạn tốt (tứ vô lượng tâm), sẳn sàng giúp đỡ ta. Tuy nhiên cạnh đó ta cũng có năm kẻ thù chực chờ nhảy ra tấn công bất cứ lúc nào. Chúng không bao giờ để ta yên.

Nhưng vấn đề là có mấy ai trong chúng ta đủ sức mạnh để đánh đuổi kẻ thù, bảo vệ cho những người bạn tốt của mình. Lại có người còn không biết rằng đó là việc tốt, nên làm.

Bốn người bạn đó là bốn tánh tốt của ta: Từ, Bi, Hỉ và xả. Ta phải tìm kiếm chúng trong tim mình. Nếu không thể tìm ra, và tự biết đó là một thiếu sót của mình, ta phải bắt đầu lo tạo ra chúng, phát triển chúng.

TỪ

Ngôn từ thật nguy hiểm. Chúng tạo cho chúng ta một cảm giác của sự trường tồn, bất biến. Chúng ta bị phủ lấp bởi ngôn từ, nhưng chúng chẳng khác gì hơn là những khái niệm. Chúng không có thật. Hãy tưỡng tượng ra một dòng sông: danh từ ‘dòng sông’ không phải là thực thể của một dòng nước chảy. Từ ‘dòng sông’ cố định: nhưng bản thể của dòng sông thì lưu chuyển.

Từ tâm chỉ có thể xuất phát từ trái tim. Tâm Từ sẽ trở nên trống rỗng, vô nghĩa, nếu nó chỉ nằm trong ngôn từ. Tự nó không có nghĩa gì, giống như từ ‘dòng sông’ sẽ gợi cho ta một cái gì đó, khi ta đã kinh nghiệm qua. Nếu ta bảo với một đứa trẻ thơ về ‘dòng sông’, nó không biết ta nói gì. Nhưng nếu bạn bỏ tay em xuống nước, để em cảm nhận dòng nước chảy, thì em sẽ thật sự biết dòng sông là như thế nào, không kể em có biết đến danh từ ‘dòng sông’ hay không.

Đối với Tâm Từ cũng thế. Danh từ ấy không có nghĩa gì. Chỉ khi nào bạn cảm được nó từ trong tim mình, thì bạn mới hiểu những điều Phật đã nói về tâm Từ trong các bài thuyết pháp của Ngài. Cuộc đời sẽ thiếu sót biết bao khi không chứa đựng cả lý trí và tấm lòng. Nếu chỉ sống bằng trái tim, con ngưòi dễ trớ thành tình cảm, một bản tính thường được đồng hóa với người phụ nử. Tình cảm có nghĩa là ta phản ứng với mọi thứ, điều đó không tốt. Lý trí cũng có chỗ đứng của nó. Con người cũng cần hiểu những gì xảy ra quanh họ. Nhưng nếu chỉ hiểu với cái đầu, nó có thể vượt bực về kiến thức, nhưng con tim sẽ thiếu đồng cảm. Tình và lý phải luôn đi đôi với nhau. Ta phải hiểu bằng lý trí và phải dùng tình cảm một cách khôn ngoan. Tràn đầy tình cảm, mang đến sự an lạc và hoà đồng cho trái tim.

Lòng Từ hay tình thương, không phải là tình cảm tạo nên bởi sự có mặt của một người dễ thương, hay vì ta đang sống bên cạnh những người thân của mình, hay một người đáng yêu. Uy quyền hay những phản ứng bản năng cũng không liên quan gì đến loại tình cảm nầy. Yêu thương con cháu của mình, yêu thương cha mẹ mình không khó khăn gì. Phần đông chúng ta đều làm được, trừ một số ít. Nhưng tình thương đó không phải là tâm Từ (Metta).

Khi Phật nói về tâm Từ, Ngài muốn nói đến thứ tình cảm không có sự phân biệt trong trái tim. Tình cảm cao thượng đó đòi hỏi chúng ta phải yêu thương tất cả mọi người như thể người mẹ yêu thương đứa con duy nhất của mình. Tất cả những ai có con sẽ biết được sự khác biệt khi họ yêu thương con mình và con người khác. Nhưng đó chính là điều ta phải sữa đổi. Nếu không, ta khó thể hiểu về lòng Từ và sự quan trọng của nó.

Nếu bạn thấy một em bé bị té xe, ngồi khóc. tự nhiên là ta sẽ đỡ em dậy, dổ em. Lòng Từ đó cũng không khó thực hiện. Khó là sự thể hiện lòng Từ trong tâm ta với tất cả mọi người, kể cả những kẻ đáng ghét nhất. Không phải tất cả chúng ta đều dễ thương, trừ các bậc A-la-hán. Ngay chính ta cũng không hoàn toàn dễ thương, thì sao lại mong mỏi điều đó ở người khác. Tại sao ta phải phân biệt giữa những người ta có cảm tình và người ta không ưa. Chúng ta tự cho mình có lý khi không ưa những người mà theo sự đánh giá của chúng ta, họ đã hành động sai quấy. Nhưng ngay chính ta, đâu phải lúc nào ta cũng hành động đúng. Suy cho cùng trong chúng ta có ai không từng làm những chuyện đáng hối tiếc. Tôi không biết về bạn, nhưng chỉ cần soi lại chính mình, tôi cũng hiểu bạn thế nào. Ai cũng lầm lổi, thì tại sao lại đòi hỏi người khác phải hoàn toàn, muốn người khác làm chuyện ta không thể làm được.

Có ba loại tâm Từ. Thứ nhất là lòng tốt (good-will). Chúng ta phải có lòng tốt đối với nhau. Đó là điều kiện tiên quyết để sống với nhau. Nếu chúng ta không tốt với nhau, ta không thể cùng ngồi thiền với nhau. Ta sẽ đứng dậy, đi lung tung. Sẽ làm ồn ào khi mọi người quanh ta cần yên tĩnh. Sẽ không có xứ sở nào tồn tại, nếu người ta không có lòng tốt với nhau. Bạn có nhận thấy chúng ta lệ thuộc vào nhau rất nhiều không? Chúng ta cậy vào người phát thư để có thông tin, nhờ người bán rau cải, nhờ nhà nông để có lương thực. Chúng ta lệ thuộc vào lòng tử tế của các nhà hàng xóm. Vì lòng tử tế là điều kiện tối cần cho cuộc sống, chúng ta không thể thiếu nó, không có nó cuộc sống sẽ đảo lộn.

Thứ hai là tình thân hữu. Ta cảm thấy gần gũi, thân thiện với một số người như bạn bè, hàng xóm, người quen biết, người giúp đỡ chúng ta. Sự thân thiện là một bước đến gần hơn với lòng Từ, nhưng chưa phải là lòng Từ thật sự. Nó làm chúng ta thấy gần gủi với người khác, cũng như đem người khác lại gần chúng ta, nhưng nó cũng có khía cạnh nguy hiểm của nó. Đó là lòng ưa thích. Thường ta nghĩ chẳng có gì xấu trong đó, nhưng trong sự ưa thích, đã có sự bám víu. Bám víu vào bạn bè ta, người quen, kẻ ban ơn cho ta, người thân chung quanh ta. Sự bám víu đó sẽ khiến ta đau khổ, sân hận, không phải đối với người thân của ta, nhưng đối với cái ý tưỡng là ta sẽ phải mất họ. Sẽ sinh ra lòng sợ hãi, vì ta chỉ có thể sợ hãi những gì ta không ưa thích. Do đó tình thương thuần khiết không còn nữa. Vì chính sự bám víu đã làm hoen ố nó, làm cho nó không còn vẹn toàn. Không bao giờ ta có thể tìm được an vui với thứ tình cảm đó. Điều đó thường xảy ra trong các gia đình. Đó là lý do tại sao con người không thể tìm được hạnh phúc trong loại tình thương đó.

Tuy nhiên tình thương chúng ta dành cho người thân trong gia đình mình có thể dùng làm hạt giống để vun trồng lòng Từ. Rồi từ đó ta phát triển, nhân rộng nó lên. Chỉ có như thế tình cảm gia đình mới có ý nghĩa. Nếu không, nó trở thành nơi ươm mầm của tình cảm sân hận -như vẫn thường thấy trong các gia đình- như nước sôi trong chiếc ấm đậy nấp. Tình cảm gia đình cần được vun trồng trong tim ta vô điều kiện, không cứ phải là chồng tôi, vợ tôi, con gái tôi, con trai tôi, cậu tôi, mợ tôi. Đầy tính cách sở hữu của cái tôi. Nếu như chúng ta không có thể vượt lên và chuyển đổi những tình cảm đó thành vô điều kiện, thì tình cảm gia đình đã không được sử dụng đúng chức năng của nó. Trong trường hợp đó, nó được dùng để củng cố cái tôi, để đảm bảo cho sự sinh tồn. Nhưng sinh tồn không phải là một vấn đề, ta không nên phí thì giờ lo chuyện đó. Dù có bom nguyên tử hay không, chúng ta cũng không thể tồn tại mãi được, có phải không? Chỉ có một nơi chốn cho tất cả chúng ta, nơi mọi người cuối cùng rồi sẽ hội ngộ.

Tình bằng hữu cũng đưa đến sự bám víu, dính mắc. Ta bám víu vào bạn bè. Sợ mất họ. Ta tốt với bạn bè vì muốn họ mãi là bạn mình. Nhưng nếu họ đối xử trả lại không được tốt, ta lập tức nghĩ xem có nên tiếp tục làm bạn với họ không. Ta đòi hỏi ở họ một sự thân thiết, lo lắng, quan tâm trả lại. Giống như kinh doanh thương mại. Một sự trao đổi sòng phẳng. Đó là điều hầu như tất cả chúng ta đều làm, đến nổi ta chẳng bao giờ để ý đến. Đối với bạn bè thì thế, đối với gia đình, chúng ta còn đòi hỏi hơn thế nữa. Nếu người thân ta không thương trả lại, ta hờn tủi, thất vọng, trầm uất. Nếu họ bỏ rơi ta, tình thương trong ta cạn kiệt. Thật là kỳ lạ, khi tình thương chỉ giới hạn trong một nhóm người.

Tình thương không thể ẩn tiềm trong con người. Con người chỉ là một đãy xương bọc da. Làm sao có thể tìm thấy tình thương trong đó. Nhưng đó là bi kịch của bao người. Romeo và Juliet, Cuốn Theo Chiều Gió… là những bi kịch sân khấu về người nầy ra đi vì người kia không yêu mình, hay chia tay nhau bằng cái chết. Con người trước sau gì cũng phải xa nhau, qua cái chết hay qua sự thay đổi tình cảm, tư tưởng. Họ cần chi phải hành động như thế. Làm sao tình yêu có thể ẩn tiềm trong những người như thế?

Tình thương tiềm ẩn trong các cảm xúc. Nếu ta không sử dụng tình cảm gia đình để làm nẩy nở thêm cảm xúc nầy, ta sẽ bị mất thăng bằng khi người ta thương yêu, bám víu vào biến mất đi vì lý do nào đó. Mục đích chính của tình cảm gia đình là để giúp ta biết thể nào là cảm xúc thương yêu, và từ đó nhân rộng ra.

Phát triển tâm Từ không phải bằng cách dự một lớp 10 ngày về thiền hay nghe thuyết pháp về lòng Từ là đủ. Chúng ta không thể mở tắt tình cảm, lý trí cũa mình như tắt mở một bóng đèn. Ta cần tập luyện có phương pháp một cách kiên nhẫn và với lòng quyết tâm.

Trái tim ta cần được rèn luyện để yêu thương vì nó không phải được tạo ra để lúc nào cũng tràn đầy lòng thương yêu. Nó có thể yêu mà cũng có thể ghét. Nó chứa đầy ý xấu, sân si, sợ hãi cũng như tình thương. Nhưng nếu như ta không làm giảm bớt sự hận thù và phát triển thêm tình thương bằng cách thay đổi cách cư xử của ta trong đời sống hằng ngày, tâm ta sẽ không thể an lạc, sự an lạc mà Từ tâm có thể mang đến cho ta.

Khi trong ta đầy tình thương -loại tình thương không có điều kiện đối với tha nhân- thì ta tràn đầy an lạc. Khi ta có thể làm chủ được các hành động của mình. Ta trở nên tự tin. Không sợ hãi điều gì. Ta tự biết mình đã được rèn luyện đến độ sẽ không thể có một phản ứng giận dữ, ghen ghét, dù nhỏ đến đâu có thể xảy ra để làm ta mất đi sự bình yên. Đó là kết quả đầu tiên và hoàn thiện nhất mà ta có thể có được do đã ươm trồng lòng Từ trong tim ta.

Quan trọng hơn cả là tình thương đó đã được vun trồng dành cho những kẻ không ‘đáng thương’ chút nào. Đó chính là cơ hội để chúng ta thực tập hầu thay đổi con tim và lý trí của mình. Chúng ta ai không từng biết một đôi người ‘khó thương’, nhưng hãy coi họ là người giúp ta tự rèn luyện tâm. Sau khi chuyện đã rồi, nhìn lại cũng là dễ chấp nhận, nhưng ngay lúc ta phải đối mặt với người đó thì tất cả những tình cảm tiêu cực dấy lên trong ta: ghét, giận, biện hộ cho thái độ giận ghét của mình, v..v… Đó đúng là lúc ta cần phải sử dụng tình thương của mình. Đúng khi ta đang sân si.

Đừng bỏ lỡ những cơ hội đó. Hãy mang tình thương đến với mọi người, dù là người ta ghét hay ta thương. Mỗi người ta tiếp xúc đều đem lại cho ta những cơ hội để học tập, thực hành lòng Từ, bất kể người đó là ai. Không kể họ nói gì, không cần họ có quan tâm đến bạn hay không, hay chính họ có lòng từ hay không. Không có gì đáng kể. Cái đáng kể là những gì đang xảy ra trong lòng bạn, và đó là điều duy nhất bạn cần nhớ tới. “Nếu trong lòng tôi chỉ có tình thương, lòng thương xót, chấp nhận; nếu tôi có thể dẹp bỏ sân si trong lòng, thì tôi đã đi được những bước đến gần hơn với đạo Pháp”. Giáo lý Đức Phật dạy cần phải được hiểu thấu đáo, rồi đem áp dụng, thể hiện chúng trong cuộc sống của chúng ta.

Ai cũng có cơ hội để sửa đổi các cách ứng xử của mình với người khác. Chúng ta luôn tiếp xúc, trao đổi với người khác, và lúc nào cũng sẽ có người không đồng ý với chúng ta. Khi đó nếu chúng ta làm thinh, không thèm trã lời, thì đó không phải là phản ứng của lòng Từ. Trái lại nó chỉ đem lại sân hận, bất mãn, lo âu, rồi dẫn đến bất cần, lạnh nhạt. Tất cả những thứ đó không ích lợi gì và cũng chẳng giúp chúng ta thanh tịnh được. Chỉ khi nào ta có thể hành xử với trái tim đầy tình thương, ta mới tìm thấy được sự an lạc, bình an với chính mình.

Phật đã nói về 11 điều lợi ích của lòng Từ. Ba điều đầu tiên là: “Ngủ ngon, không ác mộng và tĩnh giấc sảng khoái”. Nếu ai bị mất ngủ, bạn có thể đoán là ít nhiều họ đã thiếu lòng từ, và thuốc ngủ khó thể chữa được bịnh cho họ. Nhưng lòng Từ có thể giúp họ dễ ngủ. Và vì tiềm thức không có gì bứt rứt nên không có ác mộng, không ác mộng thì thức dậy cũng sảng khoái như khi họ lên giường ngủ, đó chính là nhờ họ có lòng từ, lòng nhân ái đối với tất cả mọi người.

Một cách ứng dụng là trước khi đi ngủ, chúng ta thử làm một bảng cân đối (balance sheet) -bằng ý nghĩ hay viết xuống trên giấy. Chia tờ giấy làm hai cột: Hôm nay tôi đối xử tử tế với người khác được bao nhiêu lần? Cột bên kia ghi: Bao nhiêu lần tôi cảm thấy giận dữ, đau đớn, sợ hãi, bức rức khi đối đầu với người khác? Rồi cộng lại hai cột. Nếu cột tiêu cực nhiều hơn tích cực, thì ta cần phải tu sửa. Giống như người bán hàng kiểm tra hàng hoá của mình, những món hàng không ai mua, tất nhiên phải đem trả lại.

Đó là phương cách tập luyện. Không có gì là bẩm sinh, dù tánh xấu, hay tánh tốt. Ta phải luôn luôn huân tập sửa đổi bản thân cho đến khi tất cả những ô uế ở thân tâm đều được tẩy sạch. Nhưng không phải vì nhờ ai cũng tốt. Không. Nếu ai cũng tốt, mọi người đều đang ở cõi Trời hết cả rồi. Đâu phải có mặt ở đây làm gì. Đây là cõi thứ năm tính từ dưới lên trong 31 cõi. Thữ nghĩ xem, chúng ta đang ở cõi thứ năm trong ba mươi mốt cõi, cũng khó thể mong đợi gì hơn ở con người trong cõi ấy?

Chúng ta có rất nhiều điều phải học trong cõi nầy, và có lẻ mục đích của cõi nầy chính là thế, để con người có cơ hội rèn luyện mình thêm. Không phải để chúng ta tìm kiếm sự thoả mái, tiền bạc, của cải, sở hữu. Cuộc đời chính là một trường học, đây là bài học quan trọng nhất, bài học để giúp trái tim ta thêm bao la. Không thể có bài học nào quan trọng hơn. Giống như trong một khu vườn, khi cỏ dại mọc quanh một khóm hoa hồng. Thì bao nhiêu phân bón cho hoa hồng đều vô ích, hồng sẽ không thể ra hoa, con người sẽ chẳng được ngữi mùi hương của hoa. Dần dần cỏ dại sẽ phủ trùm lên hoa. Trái tim ta cũng thế. Khóm hoa hồng là lòng Từ đang được ươm trồng. Nếu chúng ta không nhổ cỏ dại để cây được ra hoa, tỏa hương thì dần dần cây hoa Từ cũng tàn lụi. Cỏ dại chính là lòng sân si của chúng ta.

Phần đông chúng ta đều đi tìm người yêu thương mình. Cũng có người tìm được một đôi kẻ yêu thương họ và họ có thể thương trả lại. Nhưng có biết bao kẻ xấu số khác không thể tìm được ai. Họ trở nên cay đằng, hờn tủi. Trong khi mọi việc đáng lý phải là ngược lại. Vì nếu chúng ta là người đầy lòng thương đối với mọi người thì sẽ có bao nhiêu người đến với chúng ta, vì có ai mà không muốn được yêu thương. Được người khác thương yêu không có nghĩa là ta cũng đầy tình thương. Chính kẻ yêu ta mới có tình cảm thương yêu. Trong khi có thể ta chẳng có cảm giác gì cả, ngoài lòng thỏa mãn là đã có người thấy ta dễ thương. Điều đó chỉ làm cái Tôi của chúng ta thêm lớn. Trong khi yêu thương người khác thì cái Tôi của ta nhỏ bé lại.

Tình thương của ta càng bao la, ta càng có thể yêu thương nhiều người, cũng như được nhiều người yêu thương lại. Càng cho bao nhiêu, thì ta lại càng đưọc bấy nhiêu. Đó là phép tính cân đối đơn giản nhưng ít có ai thấy ra điều đó. Ai cũng đi kiếm thêm người yêu mình, nhưng không muốn ban phát tình thương cho ai cả. Điều đó thật không tưỡng. Thật nghịch lý, nhung trong đời sống của ta có biết bao điều nghịch lý.

Đây cũng là điều Đức Phật đã nói trong 11 điều lợi ích “Ta được con người và muôn loài yêu thương”. Nếu ta ban phát tình thương đến cho người khác thì tự họ sẽ tìm đến với ta. Không thiếu người yêu thương ta. Ta ban phát cho người khác tình thương không phải vì ta muốn cho, không phải vì họ cần, không phải vì họ đáng để cho, nhưng vì trái tim ta đã được rèn luyện để làm như thế. Giống như người ta được rèn luyện về toán. Khi những con số được đưa cho họ, họ sẽ tổng cộng chúng lại nếu họ muốn biết tổng số. Không có cách gì khác hơn. Cũng thế, nếu trái tim ta đã được rèn luyện để yêu thương thì nó sẽ yêu thương vô điều kiện.

Chắc sẽ có người lên tiếng phản đối rằng: “Nếu người khác cộc cằn, thô lổ với mình, mà mình đối xử với họ đầy tình thương, họ sẽ lợi dụng ta sao?” Nếu người khác có làm như thế -điều đó có thể xảy ra lắm, vì bản tính người đời là thế- nhưng đó là nghiệp ác của họ có phải không? Trong khi người tử tế không có gì để mất cả. Làm sao bạn có thể mất được tình thương vẫn đầy ấp trong tim mình? Nếu có bị lợi dụng, thì đó cũng là cơ hội để ta thử kiểm chứng lại trái tim mình xem nó đã được tôi luyện đến bực nào -xem chính mình có trở nên hờn giận hay vẫn có thể tiếp tục đối xữ tốt với kẻ xấu đó. Là dịp để ta xét soi mình có hành động đúng không? Trong tình thương có cả sự quan tâm đến người khác. Do đó một kẻ lợi dụng không thể có tình thương. Không nên sợ tình thương làm mình có vẻ yếu đuối, vì tình thương yêu thật sự chỉ làm con người trở nên mạnh mẽ hơn, không phải yếu đuối. Một người không có gì ngoài tình cảm thương yêu sẽ luôn cảm thấy an ổn, hòan tòan tự tin vì người đó biết rằng không có gì có thể lay chuyển được tình cảm của họ. Tình thương vô điều kiện tăng thêm sức mạnh cho con người, không phải sự yếu đuối. Nhưng nếu tình thương đi đôi với đam mê như người ta vẫn thường mê lầm, thì tình thương lúc đó sẽ làm con người yếu đuối, vì họ trở nên bám víu, ích kỷ. Trong khi nếu tình thương đến từ trái tim thì tình cảm đó vũng bền hơn đá.

Một điều lợi ích khác của lòng Từ là nó giúp ta dễ nhiếp tâm. Đó là lý do tại sao ta nên bắt đầu một buổi ngồi thiền với những ý tưởng tốt đẹp về chính mình. Tâm không thể trụ nếu không có ba điều căn bản: sự rộng lương, đạo đức và lòng từ. Đó là ba cột trụ của thiền, giúp ta thực tập thiền. Lòng Từ, phát xuất từ trái tim, không thể thiếu khi ta ngồi thiền vì tình cảm ấy đem lại cho ta sự bình an, tĩnh lặng trong tâm. Nếu thiếu điều đó, ta cần thực tập chú tâm vào Từ tâm trước mỗi buổi ngồi thiền để pháp triển lòng Từ trong ta.

Ta không thể thương yêu người khác nếu trước tiên ta không biết yêu thương chính mình. Nhưng không phải bằng cách phụng sự nó. Tìm đủ cách để cho nó được êm ấm, thoải mái, không được có một con muổi ở bên cạnh, đầy đủ thức ăn mà ta ưa thích. Đó không phải là thương yêu mà là phục dịch. Giống như tình thương của người mẹ dành cho con của mình phải sáng suốt. Nếu người mẹ chỉ biết cưng chiều đứa trẻ, thì nó và cả mẹ nó sẽ phải trả giá cho sự cưng chiều đó. Nhưng nếu người mẹ yêu thương con thật sự, bà sẽ không nuông chiều nó thái quá. Bà sẽ dạy con với lòng thương và trí sáng suốt, uốn nắn tánh tính nó. Đó chính là điều ta phải làm đối với bản thân ta. Vì thương chính mình, ta phải bắt mình tuân theo một số điều lệ hành động. Thực hành thiền là một cách thương yêu mình.

Mức độ định tĩnh mà ta có thể đạt được trong lúc tọa thiền tùy thuộc vào lòng Từ trong ta. Đồng thời cũng tùy thuộc vào sự thực tập. Nếu thiếu thực tập, lòng Từ khó thể giúp cho chúng ta đạt được định.

“Da dẻ hồng hào”. Có nghĩa là trên gương mặt ta biểu lộ sự an bình. Không có thứ thuốc sửa sắc đẹp nào có thể sánh kịp. Đó là nét đẹp từ bên trong. Người trẻ tuổi có thể chỉ có cái đẹp bề ngoài, nhưng trống rỗng bên trong. Nếu quan sát, người ta cũng dễ dàng nhận được vẻ đẹp toát ra bên trong. Phật thường được tả như thế. Có người chỉ cần nhìn thấy Phật một lần, đi trên đường là đã phát sinh lòng kính yêu Ngài, muốn được theo Ngài để trở thành đệ tử của Ngài. Có lần Rahula, con trai của Ngài, tỏ ra hãnh diện vì được giống Ngài. Phật liền quở dạy: “Phải coi tất cả hình tướng bề ngoài như thế nầy: Đây không phải là của tôi, không phải là tôi, tất cả chỉ là giả tướng”.

Một điều lợi ích nữa của Từ tâm là “Lửa, thuốc độc, làn tên không thể hại tới ta”. Ngày nay người ta không dùng tên nữa mà dùng súng đạn, dùi cui; còn lữa và thuốc độc muôn thưở vẫn là những thứ dùng để tấn công. Nói thế không có nghĩa là ta trở nên bất khả xâm phạm, nhưng những người đầy từ tâm hiếm khi rơi vào những hoàn cảnh đó. Và dù có lâm vào những hoàn cảnh như thế, lòng họ cũng không hề bị xao xuyến. Của cải họ có thể bị hao hụt, nhưng trái tim của họ thì không. Trái tim không thể bị khuất phục khi trái tim chỉ có tình thương, không còn lòng hờn ghét.

“Ta sẽ được chết bình an”. Tất cả chúng ta ai rồi cũng chết. Giờ phút lìa khỏi đời rất quan trọng, vì đó chính là giây phút của tái sinh, đúng ra đó là ngày sinh nhật. Nhưng ta thường nói về cái chết với sự đau buồn, mất mát. Thực ra nếu ta có thể đón chờ cái chết với tỉnh giác, với từ tâm thì đó chính là ngày sinh tốt đẹp của ta. Tất cả đều không khác, trừ khi bạn là một A-la-hán. Thói quen suy tưỡng, xúc cảm hằng ngày sẽ theo ta đến tận cuối đời, giây phút lâm chung. Các thói quen đó không thể thay đổi đột ngột. Vì thế nếu các thói quen đó xuất phát từ lòng Từ, thì ta sẽ rất tỉnh thức, không thấy sợ hãi, lòng đầy bình an và vững niềm tin. Giây phút lìa đời phải là giây phút tốt đẹp vì đó là bước khởi đầu của sự tái sinh.

Lòng Từ nuôi dưỡng trong tâm sẽ đem lại lợi ích cho chính chúng ta. Ai đó đã nói rất đúng. Từ tâm chính là lòng thương yêu chính mình. Đúng thế. Nhưng tình thương nầy không phải là tình thương tầm thường ích kỷ, mà nó là bàn đạp để đưa chúng ta đến cái đích cuối cùng: Vô Ngã. Thật thế khi trái tim ta càng có nhiều lòng từ, ta càng như thể không còn nghĩ đến chính bản thân mình, đến cái Tôi của mình. Và khi cái Tôi trở nên nhỏ bé hơn, thì tình thương yêu càng dễ phát triển hơn. Khi ta nghĩ đến người khác nhiều hơn, thì Ngã phải nhường chỗ cho họ trong trái tim. Dĩ nhiên họ là người được lợi nhưng đó chỉ là thứ yếu. Chỉ có ta mới có thể tự giải thoát cho chính mình. Ai cũng phải ra đi một mình. Nhưng nếu có những người bạn đồng hành cùng muốn đi theo con đường của ta, thì ta cũng mở rộng vòng tay đón mời họ, vì con đường, chuyến xe nầy hãy còn vằng vẻ làm sao.

BI

Người bạn thứ hai là Bi. Đối nghịch với Bi là sự ác độc. Đừng lầm Bi với lòng thương hại. Lòng thương hại dấy khởi khi ta cảm thấy tội nghiệp cho ai đó. Bi là khi chúng ta chia sẻ lòng xót thương với họ. Bi là cùng cảm thông với một người khác.

Bi phát sinh khi ta cảm nhận được sự đau khổ, không như ý của người khác trong chính bản thân ta. Chỉ có như thế ta mới thực sự cảm thông được với người khác. Nếu không, ta sẽ tiếp tục sống với ảo tưỡng là đối với ta, mọi việc đều bình thường, chỉ có người khác là có vấn đề, là đau khổ. Nếu ta có thể nhận diện được tất cả những trạng thái bất như ý dồn dập xảy ra trong ta – sự không ưa thích và chán ghét, hối hận và hờn trách, sợ hãi và lo lắng, căng thẳng – thì ta hiểu rằng tất cả chúng ta đều cùng một số phận. Để khi người khác gặp chuyện khó khăn, ta có thể thông cảm với họ, vì ta biết rằng chính mình cũng có khổ đau.

Sự cảm thông (Bi) là bước đầu dẫn đến tình thương. Nếu ta có thể thực sự dấy lên trong lòng một cảm xúc chân thành cho ai đó, cảm thông sâu sắc nỗikhó khăn của họ, những gì họ phải hứng chịu, thì sự thương cảm đối với họ cũng tự nhiên đến trong lòng ta.

Tuy nhiên, ta không nên có sự phân biệt giữa người nầy, kẻ kia theo thói thường tình. Thường chúng ta dễ cảm thông với những người có liên hệ gì đó với ta. Như người đồng tôn giáo, cùng nhóm bạn, đồng quê hương, láng giềng hay gì gì đó mà ta cũng quan tâm đến. Một cái gì đó để ta có thể nói ‘của tôi’, thì ta chọn lựa cái đó. Sự lựa chọn nầy đẩy con người ra xa nhau, và dầu họ đi đến đâu trên thế giới nầy, tinh thần chia rẽ cũng đi theo đến đó, khiến con người xâu xé nhau.

Sự chia rẽ nầy do quan niệm chấp ‘Ngã’ mà ra. Đây là cái Tôi, tôi phải bảo vệ cái Tôi của mình. Cái Tôi bị đe doạ. Cái Tôi thường xuyên cảm thấy bị đe dọa, đến nổi ‘Tôi’ cũng không biết rõ về mình. Không thật sự biết ‘cái Tôi’ nầy là gì. Tất cả cái ta biết là sự đe dọa đến cái Tôi, làm tôi sợ hãi. Nơi nào có sự sợ hãi, nơi đó không có cảm thông (bi) vì sợ hãi xuất phát từ sân hận. Chúng ta chỉ sợ những gì ta ghét. Những gì ta ưa thích, ta không sợ. Trái tim nào càng có nhiều sự sợ hãi, trái tim đó càng ít có sự đồng cảm (bi). Sợ hãi luôn núp dưới bóng của ‘Ngã’. Một vì A-la-hán hòan toàn không có sự sợ hãi. Không có sự sợ hãi ở ngươì đã giác ngộ. Không có sự sợ hãi, vì không có gì để được hay mất. Tất cả đều trở thành tầm thường, không đáng kể. Càng nhiều Ngã chấp, sự sợ hãi càng tăng. Sợ bóng tối, sợ trộm cướp, sợ thời tiết xấu, sợ tương lai, đủ thứ sợ. Sự sợ hãi xuất phát từ lòng muốn bảo vệ ‘cái Tôi’ giả tạo. Và càng muốn bảo vệ cái Tôi bao nhiêu, lòng cảm thông (bi) càng bị giới hạn.

Tuy nhiên sự cảm thông dễ trở thành những lời nói ở đầu môi. Có thể ta không thật lòng. Phần lớn chúng ta đều rất giỏi ‘đóng kịch’. Một lần Pessa, con của người dạy voi, đến gặp Phật và nói với Ngài: “Con chẳng gặp khó khăn gì với lũ voi. Hình như chúng ‘nghĩ sao, làm vậy. Khi chúng có một ý định gì đó, con hiểu ngay, và chúng làm đúng theo ý định đó. Nhưng sao con người khó hiểu quá. Họ nói một đường và làm một nẻo”. Phật nói: “Đúng vậy. Voi sống trong rừng cây, còn con người thì sống trong ‘rừng’ tâm tưỡng”. Con người nói một điều, nhưng ý nghĩ, hành động lại khác. Tệ hại hơn nữa, là ta không hề ý thức chuyện đó là không tốt. Ta tưỡng đó là việc phải làm. Là luật ứng xữ, phong tục, truyền thống, nên chúng ta không xét lại kỹ lưỡng ý tứ, lời nói và hành động của mình.

Chỉ khi nào ta soi lại mình một cách thấu đáo, với lòng thiết tha, thành khẩn, ta mới có thể thật sự hiểu được những điều Phật dạy. Phật đã giảng nghĩa rõ ràng về bản tánh của chúng ta. Ngoài mặt, tất cả chúng ta đều như khác nhau, nhưng bên trong tất cả đều giống nhau. Chúng ta giống như từ một khuôn ra, chạy đuổi theo cùng thứ, đi theo cùng con đường. Sự khác nhau chúng ta thấy chỉ là giả tạo, tùy thuộc vào cái nhìn của bản Ngã.

Tất cả những người có ý thức đều than phiền về chiến tranh giữa các quốc gia. Ai cũng muốn nhìn thấy thế giới được hòa bình. Dĩ nhiên là điều đó không thể có. Ở thế kỷ nầy hình như lúc nào cũng có chiến tranh ở nơi nầy, nơi khác. Các xứ sở đua nhau thành lập những hàng phòng thủ kiên cố, đổ vào đó bao nhiêu là năng lực, tiền bạc và con người. Chính các hệ thống phòng thủ nầy biến thành hệ thống tấn công ngay lập tức nếu như có ai tuyên bố lời nào không thân thiện hay hơi có vẻ đụng chạm đến không phận hay hải phận của họ. Hành động nầy được giải thích, biện hộ bằng “Chúng ta phải bảo bệ biên giới của mình, để bảo vệ dân cư ở đó”. Việc bãi bỏ vũ khí chỉ là ước vọng, một lời cầu nguyện, không phải là thực tế. Tại vì sao? Vì việc bãi bỏ vũ khí phải bắt đầu từ trái tim của mọi người, nếu không việc bãi bỏ vũ khí đại trà sẽ không thể nào xảy ra.

Việc phòng thủ và tấn công nói rộng ra luôn xảy ra trong chính mỗi chúng ta. Chúng ta không ngừng bảo vệ cái Tôi của mình. Nếu ai đó nhìn chúng ta một cách không thân thiện, hoặc tỏ ra không biết ơn, không thương yêu ta giống như ta mong muốn, hay trách cứ chúng ta điều gì, thì sự phòng thủ đó biến thành sự tấn công. Lý luận rằng ta phải bảo vệ người nầy, “xứ sở” nọ, là bảo vệ ‘cái Tôi’, để bảo vệ dân cư, là bảo vệ cái Ngã của mình. Vì hầu hết mọi người đếu hành động như thế, nên các quốc gia cũng làm như thế. Không thể hy vọng có sự thay đổi xảy ra trừ khi mỗi cá nhân biết tự sửa đổi. Do đó, mỗi người chúng ta phải tự phấn đấu để tìm hòa bình cho chính nội tâm mình. Điều đó có thể xảy ra nếu mỗi ‘cái Tôi’ có thể thu nhỏ lại bớt, và vấn đề Ngã chấp chỉ có thể giảm thiểu khi chúng ta có thể thật lòng soi rọi lại mình.

Một cách để làm việc đó là đặt tên cho các tư tưởng của mình (labelling). Có thế ta mới khám phá ra các tư tưởng xấu của mình, từ đó bớt quan trọng hóa mình, hay tư tưởng của mình. Đó là hành Thiền.

Một cách khác để soi mình cặn kẻ là biết chấp nhận sự thật khi trong ta dấy lên những tư tưởng xấu và không thể đè nén chúng. Phải nhận ra rằng con người luôn khao khát thoã mãn các ngũ dục. Sự thành thật cặn kẻ nầy giúp cho cái Tôi của chúng ta bớt trương phồng lên. Khi ta làm được như thế, lòng cảm thông (bi) trở nên là một hiện thực -lòng cảm thông chân thật, không chỉ là lời nói đầu môi. Nói thì dễ thôi, ai cũng làm được điều đó. Từ 6 tuổi trở lên là đã có thể học thuộc lòng bài thiền quán về lòng Từ. Những lời nầy rất hay, nhưng thực sự chúng giúp đuợc gì cho ta? Sự lập đi lập lại những lời nầy khiến ta đánh mất xúc cảm ban đầu, trong khi ta sống tùy thuộc vào xúc cảm của mình. Đừng hiểu lầm rằng ta sống theo lý trí. Sự thật là mọi việc bắt đầu bằng xúc cảm, rồi phát sinh ra hành động. Sau cùng tiến trình tư tưởng mới xuất hiện để lý giải cho hành động của mình.

Hiểu được cảm xúc của mình là một điều tối quan trọng. Đó là điều cơ bản. Làm sao chúng ta ‘tri thức’, biết thế nào là tình thương, lòng cảm thông nếu chúng ta không có những xúc cảm đó? Chúng ta có thể biết về chúng, nhưng làm sao thể hiện chúng, nếu ta không có xúc cảm đó? Giải thoát không phải là một ‘tri thức’, nó là một cảm xúc.

Lòng cảm thông (bi) là một tình cảm xuất phát từ trái tim, không cần có lý do hay điều kiện gì đặc biệt. Ta không cần phải đợi một dịp nào để cảm nhận được rằng ai đó đang phải đối mặt với một bi kịch trong đời hay cơ thể họ đang làm họ đau đớn. Nếu lòng cảm thông của ta phải được kích thích, gọi mời, thì lòng cảm thông không phải luôn luôn có mặt trong tim ta, mà lúc có lúc không, nhưng phần nhiều là không. Đó không phải là một trái tim đầy cảm xúc. Một trái tim đầy cảm xúc -cũng giống như một trái tim đầy tình thương -luôn đầy thương cảm vì biết rằng ai cũng có nỗi khổ. Sự đau khổ đã được nhắc đến trong đế đầu tiên của tứ đế (khổ đế) của Phật pháp. Không có ai thoát khỏi sự đau khổ vì cuộc đời -sự hiện hữu của ta- chính là sự khổ đau. Nhưng nó không phải là bi kịch. Nó chỉ có nghĩa là vạn pháp trên đời đều ẩn chứa trong đó sự xung đột, bất như ý, bực dọc, lòng mong muốn được có nhiều hơn, muốn không bị mất mát, thay đổi hay hoại diệt. Trừ các vị A-la-hán, bản tánh con người không phải dễ dàng buông xả. Vì thế lòng cảm thông (bi) cần luôn có mặt, không đợi đến khi người khác bị cảnh long đong.

Nếu quá chấp Ngã, người ta khó thể cảm thông với người khác. Chấp Ngã là nguồn gốc của bao vấn đề giữa con người với nhau. Vì nếu ai cũng bận rộn lo cho cái Tôi của mình, thì làm sao còn cảm xúc cho người khác. Thường người quan tâm đến kẻ khác bị coi là cá biệt, không giống ai. Thật đáng tiếc vì chính người có lòng thương, và cảm thông đối với người khác mới thật là người hạnh phúc. Tuy nhiên phần lớn chúng ta thiếu lòng từ bi. Hạnh phúc thực sự khó tìm thấy ở mọi nơi. Trong khi chính hai tình cảm nầy (từ và bi) đem lại cho ta niềm vui, vì chúng giúp ta bớt nghĩ đến cái Tôi của mình, bớt chấp Ngã. Người mà quá chấp Ngã, không thể có niềm vui vì họ không bao giờ mãn nguyện trong việc thỏa mãn cái Tôi của mình. Không bao giờ ta có thể giải quyết hết những vấn đề của mình. Vì hết điều nầy thì đã có điều khác dấy lên. Nhưng khi ta buông bỏ nó, mà hướng tất cả chú tâm vào sự không toại nguyện, đau khổ mà mọi chúng sinh đều phải đối mặt, ta sẽ nhận ra được cái khổ của tất cả nhân loại, lúc đó những nỗi niềm riêng của chúng ta trở thành quá nhỏ mọn, không đáng kể. Nỗiđau của ta chỉ là một phần của sự hiện hữu chung. Lúc đó lòng cảm thương cho chính mình và cho tha nhân sẽ phát sinh. Và quyết tâm để tận diệt mọi khổ đau sẽ được thêm sức mạnh cần thiết để làm điều đó.

H

Người bạn kế tiếp trong bốn người bạn của ta là sự biết chia sẻ niềm vui với người khác hay là hỉ. Đối nghịch với hỉ là lòng ganh tỵ. Chớ lầm hỉ với sự đãi bôi, giả đạo đức, nói một điều mà nghĩ một điều.

Thí dụ, nếu có ai được may mắn gì đó, ta phải chúc mừng, nhưng trong lòng không có tình cảm đó, hay tệ hại hơn nói một điều mà nghĩ một điều khác. Giống như là “Sao tôi không là người may mắn đó? Sao lúc nào cũng là người khác?”.

Chia sẻ niềm vui với người khác là liều thuốc nhiệm mầu chữa bịnh trầm cảm. Ai đang vướng chứng bịnh nầy là vì họ không biết chia sẻ niềm vui với kẻ khác, họ thiếu hỉ tính. Trong cuộc đời ta không có nhiều dịp để mãn nguyện, vui mừng, nhưng nếu ta biết chia sẻ niềm vui của kẻ khác thì chắc chắn là ta sẽ có nhiều cơ hội để hạnh phúc hơn.

Ta có thể chia sẻ niềm vui với những người có khả năng. Nhiều người khó chấp nhận sự tài giỏi của người khác. Họ sẽ miễn cưỡng nói rằng: “Ừ, cho là người đó có thể làm được như vậy đi, nhưng mà…” và lập tức chê bai thay vì chia sẻ niềm vui với người tài giỏi hơn mình. Người khác có thể làm bao nhiêu việc giỏi hơn ta. Người biết hát, người biết vẽ, biết nhảy, biết phiên dịch, người có thể làm ra tiền, người có thể sống không cần đến nó. Mọi người đều có một khả năng gì đó. Ta sẽ có biết bao niềm vui nếu biết chia sẻ với họ.

Chia sẻ niềm vui với người khác cũng là một cách tạo nghiệp lành. Tôi đã ở một làng nhỏ nơi có phong tục là khi có chuyện gì vui trong làng, người ta lại ra chùa đánh chuông báo với mọi người. Được mùa, gả vợ gả chồng cho con, xuất viện, làm ăn tốt, sửa được nhà… bất cứ điều gì có thể làm cho người ta vui mừng. Khi tiếng chuông vang lên, mọi người đều nhìn ra hướng đó mà nói lời chúc mừng. Người đánh chuông đã tạo nghiệp lành bằng cách làm cho mọi người có thể chia sẻ niềm vui với mình. Những người kia cũng tạo được nghiệp lành vì đã chia sẻ niềm vui với người khác.

Nhiều nơi khác không có phong tục đó. Ta phải tự rung tiếng chuông hoan hỉ trong lòng mình. Đó là một điều rất quan trọng để nhớ, phải nhớ những điều Phật dạy trong mọi hoàn cảnh, để thực hành chúng. Không phải chỉ nhớ trong một hoàn cảnh nào đó, hay khi có tai biến, nhưng phải luôn luôn nhớ đến chúng vì đó là bí quyết để sống một cuộc đời hạnh phúc và bình an. Phật đã nói: “Ta chỉ dạy một điều, là đau khổ, và đọan diệt khổ”. Phật đã đại nguyện thệ như thế và đã thực hiện được những điều đó. Đó là Phật pháp – đoạn diệt khổ. Ta phải luôn nhớ chấp Ngã là nguồn gốc của mọi vấn đề và cố gắng sửa đổi, nếu không là ta đã quên lời Phật dạy. Những lời đó phải thường trú trong tâm trí chúng ta vì lợi ích của chúng không chỉ là lợi ích nhất thời.

X

Người bạn cuối cùng của chúng ta là lòng an nhiên tự tại (xả), một trong những tình cảm cao thượng nhất. Đối nghịch với nó là sự lo lắng, bồn chồn. Nhưng chớ lầm xả với sự thờ ơ, lãng đạm.

Thờ ơ là trạng thái tâm hồn nói rằng “Tôi chẳng quan tâm khi việc đó chẳng xảy ra cho tôi hay gia đình tôi. Tôi không muốn biết chuyện đó. Tôi không muốn phải bận tâm vì nó”. Sự thờ ơ là thái độ lạnh nhạt, xa lánh. Thái độ đó không dung chứa tình thương, lòng từ. Ta chỉ muốn bảo vệ riêng cho mình, vì thế, ta trở nên thờ ơ, lãnh đạm.

Trong khi xả, hay sự bình an tự tại dựa trên trí tuệ, dựa trên sự hiểu biết rằng mọi sự vật đều thay đổi, đều hòan toàn vô thường. Dầu chuyện gì xảy ra, rồi nó cũng qua đi. Cái gì sẽ xảy đến cũng chẳng quan trọng gì. Cánh cửa đưa đến bất tử qua vô thường là cánh cửa không tên, có nghĩa là không có gì quan trọng cả. Trong cả vũ trụ nầy, không có gì quan trọng cả trừ sự giải thoát. Vì vậy, sự thanh thản, an nhiên (xả) phải xuất phát từ ý thức nội tâm rằng tất cả mọi vật đều thay đổi, dù cho chuyện gì đã xảy ra, tốt hay xấu, cũng không làm ta vui mừng hay buồn bã. Nó chỉ xảy ra. Chúng ta chỉ có mặt ở nơi nầy trong 60, 70 hay 80 năm. Vậy tất cả những lo lắng, chộn rộn là cho cái gì? Có gì để nắm giữ? Có gì để mong cầu? Sự việc chỉ xảy ra.

Vì muốn bảo vệ cái Tôi mà ta không có tâm xả, hoàn toàn an nhiên tự tại. Chúng ta sợ rằng “Tôi có thể bị nguy hiểm, việc nầy việc nọ sắp ảnh hưởng tới ‘tôi’, nên cuộc sống ta không yên ổn”. Sự yên ổn mà mọi người theo đuổi chỉ là viển vong. Ao tưỡng. Không có sự yên ổn thật sự. Ai cũng phải đối mặt với cái chết. Tất cả những gì chúng ta sở hữu đều sẽ bị hủy diệt. Tất cả những người thương của ta đều sẽ chết, hoại diệt, bịnh hoạn, bỏ rơi ta, thay đổi tình cảm… .

Không có gì có thể yên ổn trong những điều kiện như thế. Sự xáo trộn, không an ổn phát sinh khi những việc không như ý xảy ra, là do ta ảo tưỡng rằng ta đã đánh mất cái gì đó rất quan trọng cho sự sống còn của mình. Hành động như thế là để bảo vệ cái Tôi của mình. Nhưng ngay chính sự sống còn của chúng ta cũng là ảo tưỡng vì có gì để bảo đảm rằng chúng ta sẽ luôn khỏe mạnh, luôn an toàn, bảo đảm.

Để có được tâm xả không chỉ có quyết tâm muốn an nhiên tự tại là đủ. Quyết tâm là cần thiết, nhưng nó dễ đưa đến sự dồn nén. Chúng ta thường đè nén những tình cảm mãnh liệt của mình. Làm vậy cũng chẳng có ích lợi gì, vì lần lần những dồn nén cũng bị nổ tung. Ta dồn nén thứ nầy thì nó cũng phát ra thứ khác. Dồn nén có thể dẫn đến bịnh hoạn, trầm uất. Nếu ta không bị xáo trộn vì việc nầy thì cũng sẽ bị xáo trộn về việc khác.

Sự an nhiên, hay tâm xả cần xuất phát từ bên trong. Khi được ươm trồng tốt, tâm xả là một trong những bảy yếu tố dẫn đến giác ngộ. Chỉ có các đấng Giác Ngộ mới có được tâm buông xả vô lượng. Nhưng nếu chúng ta không bắt đầu thực hành tâm buông xả ngay từ bây giờ, thì đến lúc nào ta mới tiến hơn, trưỡng thành hơn?

Qua thiền định, ta có thể bắt đầu thấy được sự chộn rộn, thay đổi luôn luôn của tâm. Có ai nhớ được mình nghĩ gì trong 10 phút trước đây không? Trong kỳ ngồi thiền trước? Hay lần trước đó nữa? Tuyệt nhiên không. Ta không nhớ gì cả. Không giữ lại được ý nghĩ gì. Tất cả là thoáng chốc. Không phải vì ta đã có căn nhà hay người thân nào đó bên cạnh mình suốt ba mươi mấy năm nay mà ta nghĩ rằng ta có thể giữ họ mãi bên mình. Chỉ vì những thứ ấy đã ở bên ta một thời gian dài, ta tưỡng như các thứ ấy là vĩnh cữu. Nhưng những khi ngồi thiền ta có thể thấy là các tư tưởng của ta đến rồi đi, không bao giờ ở lại với ta. Do đó có gì đâu để lo phiền nếu như mọi vật đều thay đổi. Luôn đến, rồi đi.

Lúc nào còn những chộn rộn đó là còn có một con người đằng sau đó. Trái tim còn nhịp thở, máu còn luân, tư tưởng, tình cảm còn thay đổi, các tế bào còn sinh diệt, thì ta còn sống. Khi tất cả ngưng lại, ta chỉ còn là một cái xác. Tất cả những thay đổi, bất ổn định chính là sự sống, vậy mà ta cứ cố làm cho mọi thứ vĩnh viễn, không thay đổi. Ta muốn chúng bất di dịch. Đây là Tôi, và tôi muốn tất cả đều biết như thế. Tôi có một cái tên và có một số người, một số của cải thuộc về tôi Tôi có những quan điểm và tôi muốn tất cả mọi người đều biết nha”thế”. Đó là sự gán ghép tính cách vĩnh viễn vào một con người. Tuy nhiên khi còn là con người, còn có những thay đổi, để cuối cùng nó sẽ biến đổi thành một xác chết. Lúc đó thì ta có thể bắt đầu lại tất cả.

Để có được tâm xả, lòng thanh thản ta còn phải có những tánh tốt cơ bản khác. Như sự chấp nhận, chịu đựng. Nếu không biết chấp nhận, ta sẽ sinh ra khổ đau chính vì sự phản kháng của mình. Đối nghịch vời chấp nhận là phản kháng, chống đối, và làm như thế chỉ mang lại đau khổ. Như khi ta đẩy ngược lại với một lực gì tay ta sẽ đau. Nhưng nếu xuôi theo nó thì sẽ không đau. Chấp nhận sự việc như nó xảy ra sẽ đem lại thanh thản, an nhiên tự tại cho ta, và sự thanh thản đem an lạc lại cho ta.

Tứ vô lượng tâm hay bốn trạng thái tình cảm vừa nêu trên (Từ, Bi, Hỉ, Xả) đem lại niềm vui trong lòng ta. Nếu ta biết vun trồng các tình cảm nầy đến một mức độ nào đó, ta sẽ cảm thấy tự tại, an bình, thoải mái vì ta nhận ra rằng cho dù thế giới có đảo điên, nghiêng ngả, ta không hề bị lay chuyển. Như Phật nói “Tôi không tranh chấp với thế gian. Chính thế gian tranh chấp với tôi”.

Thật là bình an, thanh thản!

Diệu Liên Lý Thu Linh (dịch)

13/07/2009 Posted by | c) PHẬT HỌC TỔNG QUÁT, d) PHẬT HỌC VẤN ĐÁP | Bình luận về bài viết này

ĐẠI CƯƠNG VỀ NGHIỆP

PhotobucketKarma, nghiệp có nghĩa là “hành động”. Nó hoạt động theo ba mặt: thân, lời và ý. Nó sản sanh ra ba loại hậu quả: xấu, không xấu và trung tính, và diễn ra trong hai thời: trước tiên người ta nghĩ đến điều sắp làm, đó là hành động ý định, rồi những động lực tâm thức hiện thực thành một hành vi thân xác hay lời nói, đó là hành động cố ý.

ĐỊNH NGHĨA VỀ NGHIỆP

Định nghĩa tột cùng của Nghiệp là tác ý. Tư tưởng, lời nói, việc làm đều khởi xuất từ động cơ ý muốn. Phật giáo gọi ý muốn hay ý chí ấy là tác ý. Những hành động có tác ý, dầu biểu hiện do thân, khẩu hay ý đều tạp Nghiệp. Hành động có tác ý, thiện hay bất thiện, đều tạo thành Nghiệp. Những hành động không cố ý, không có chủ tâm, mặc dầu đã biểu hiện bằng lời nói hay việc làm đều chưa tạo thành Nghiệp.

Đức Phật dạy:” Này hỡi các Tỳ-kheo, Như Lai xác nhận là chính Tác ý là Nghiệp. Có ý muốn làm mới có hành động, bằng thân, khẩu hay ý.”

PHÂN LOẠI NGHIỆP

Có nhiều cách phân loại Nghiệp tuỳ thuộc vào tiêu chí căn cứ. Ở đây dựa trên khả năng báo ứng, Nghiệp có thể chia thành bốn loại:

Trọng Nghiệp

Nghĩa là hành động trọng yếu, nghiêm trọng, một Nghiệp nặng, vì nó chắc chắn trổ quả trong đời hiện tại hay kiếp sau hoặc kiếp vị lai.

Nếu là một trong Nghiệp thuộc về 5 loại tội ác (Ngũ Nghịch Đại Tội) là giết cha, giết mẹ, giết vị A-la-hán, gây thương tích cho Đức Phật và chia rẽ Tăng đoàn.

Cận tử Nghiệp

Cận Tử Nghiệp là nghiệp dẫn dắt đi thọ sinh. Cận tử Nghiệp là hành động cuối cùng hay là hành vi nào mà chập tư tưởng sau chót nhớ nghĩ đến trước khi lâm chung.

Người theo Đạo Phật thường có thói quen nhắc nhở người sắp lìa đời nên có những hành vi ý tưởng tốt đẹp đã làm trong cuộc đời, giúp đỡ khuyến khích họ tạo một nghiệp lành ngay trước giờ phút lâm chung như: Tụng kinh, Niệm Phật…

Đôi khi người xấu có thể chết một cách yên ổn và tái sanh trong cảnh giới tốt đẹp nếu họ được túc duyên hồi nhớ lại, hoặc làm một điều thiện trong giờ phút cuối cùng. Nhưng không có nghĩa là người ấy, dầu tái sanh trong nhàn cảnh, cũng không tránh khỏi quả dữ của nhân ác đã gieo trong quá khứ.

Một người làm lành có thể sanh trong cảnh xấu, bởi bất thình lình trong giờ phút cuối cùng lại có một hành vi hay tư tưởng bất thiện. Tuy nhiên đó là do chập tư tưởng bất thiện sau cùng nên người ấy phải chịu tái sanh trong cảnh khổ, nhưng những nhân lành người ấy đã gieo sẽ trổ quả đúng lúc khi đủ thời tiết nhân duyên.

Thường Nghiệp

Là những việc, hành động hàng ngày thường làm, hay nhớ đến và ưa thích hơn hết. Những thói quen làm lành hay dữ dần dần trở thành bản chất và ít nhiều uốn nắn tâm tánh con người. Trong khi nhàn rỗi tâm thường duyên theo những tư tưởng, những hành động quen thuộc một cách vô ý thức. Trong giờ phút lâm chung, trừ khi bị một ảnh hưởng nào mạnh hơn, ta thường nhớ lại những hành vi và tư tưởng quen thuộc.

Tích Trữ Nghiệp

Tất cả những trường hợp không có kể trong ba loại nghiệp trên gồm chung lại thành một Nghiệp Tích Trữ. Nghiệp này giống như vốn dự trữ của một cá nhân.

PHÂN BIỆT GIỮA NGHIỆP VÀ NGHIỆP BÁO

Nghiệp là Nhân

Tạo Nghiệp là gieo Nhân

Nghiệp báo là Quả

Nhân duyên đủ thì trổ quả gọi là Nghiệp Báo.

Trong sự báo ứng của Ngjiệp, Tâm là yếu tố tối quan trọng, bởi lẽ tất cả những việc làm, lời nói và tư tưởng đều do nơi tâm phát khởi.

Trong chuỗi Nhân-Quả là liên hồi vô thuỷ vô chung, nhân duyên đủ thì trổ quả, đến lượt thì quả lại trổ thêm nhân mới và hội đủ duyên thành quả mới. Luân hồi vô thường là vậy.

TÍNH CHẤT CỦA NGHIỆP

Gieo gì gặt nấyTạp A-hàm

Thật hiển nhiên “gieo gì gặt nấy”. Nhưng nếu chúng ta cứ bám chặt vào câu này thì sẽ rơi vào tình trạng bi quan cho rằng biết bao giờ mới trả hết nghiệp đã gieo của vô thuỷ vô kiếp, để rồi ngủ quên ngay trong đời sống hiện tại.

Chúng ta chưa đủ khả năng thấu được vô lượng kiếp của Đức Phật. Được thân làm người đã là phước quý giá hơn những loài chúng sinh khác, nghĩa là chúng ta có cơ hội tu tập cho đến khi thành tựu quả vị Phật, bằng cách gieo những hạt giống lành hầu mong trổ quả ngay trong hiện đời, kiếp kế tiếp hay nhiều kiếp vị lai.

Mỗi người chúng ta hãy tự chiêm nghiệm tính chất của Nghiệp”gieo gì gặt nấy” với sự quán chiếu về lý Vô Thường-Vô Ngã và luật Nhân Quả trong một bình diện rộng lớn đa chiều của nhiều kiếp nhân sinh, để tự tin mà tìm phương tiện chuyển hoá nghiệp báo của bản thân mình.

Đồng thời chúng ta cần ghi nhớ rằng, khi đã gieo nhân lành rồi thì đừng hối tiếc để tránh tình trạng quả trổ sanh không được tương xứng với nhân hoặc thậm chí trái ngược với nhân đã gieo. Ví dụ một người có lòng tốt giúp đỡ người nghèo hay người bị sa cơ lỡ vận, nhưng khổ một nỗi người này giúp lại hay kể công nên làm cho người mang ơn có khi hết kiếp hiện tiền cũng chưa đủ cơ hội để trả hết ơn nên chẳng dám gần gũi, thậm chí lại có những trường hợp sau sự giúp đỡ một thời gian hai bên không muốn nhìn mặt nhau. Theo đạo lý thường tình thì mối quan hệ giữ người hỗ trợ và người thọ nhận sự giúp đỡ phải là tốt đẹp mới đúng. Nhưng đôi khi lại trái ngược.

NĂNG LỰC CỦA NGHIỆP

Nghiệp là một năng lực riêng biệt của từng cá nhân được chuyển từ kiếp này sang kiếp khác. Nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo nên tâm tánh của một con người.

Vạn vật đều Vô Thường, mỗi người chúng ta luôn biến đổi và luôn đang trở thành một cái gì khác.

Theo luật Nhân-Quả thì cái mới ấy phụ thuộc vào hành động của chính mỗi chúng ta.

Trong từng sát-na ta có thể tự cải hoá cuộc đời mình hướng thượng, hoặc ngược lại. Tất cả nhân ( Nghiệp thân, khẩu, ý) , mà ta gieo vào vũ trụ này đều được ghi lại và vận hành theo luật Nhân-Quả.

Nghiệp này sẽ cộng hưởng với các nghiệp khác ( biệt nghiệp của bản thân hay cộng nghiệp của một cộng đồng, tổ chức lớn, nhỏ) để mà trổ qủa ( nghiệp báo) khi có đủ nhân duyên. Đó là lý do tại sao mà có thể quả của một nhân yếu tố lại trổ sanh tròn đủ, còn quả của một nhân mạnh lại lắng xuống không trổ sanh nữa như trường hợp sự tu tập đạt đến quả vị A-la-hán.

Đức Phật dạy: Này các Tỳ-kheo, người kia không biết khép mình vào kỷ cương của thể xác, của luân lý, của tâm, của trí tuệ, kém đạo đức, kém giới hạnh và do đó, sống đau khổ. Dầu một hành động tầm thường của người ấy cũng đủ tạo quả đưa đến cảnh khổ”.

Này các Tỳ-kheo, người kia có nếp sống kỷ cương, về vật chất cũng như luân lý, tinh thần và trí tuệ, đạo đức cao thượng, biết làm điều thiện và lấy tâm Từ vô lượng đối xử với tất cả mọi chúng sinh. Người như thế đâu có một hành động tầm thường như người kể trên hành động ấy cũng không tạo quả trong kiếp hiện tại hay kiếp tương lai.

Tỷ như có người cho một muỗng muối vào bát nước. Này các Tỳ-kheo, các thầy nghĩ thế nào? Nước trong bát có thể trở nên mặn và khó uống không?

-Bạch Đức Thế Tôn, có ạ!

-Tại sao?

-Bạch Đức Thế Tôn, vì nước trong bát thì ít mà cho một muỗng nên phải mặn.

-Bây giờ, tỷ như người ta đổ muối ấy xuống sông Hằng, này các Tỳ kheo, các Thầy nghĩ sao? Nước sông hằng có vị muối ấy mà trở nên mặn và khó uống không?

-Bạch Đức Thế Tôn, không ạ!

-Tại sao?

-Thưa Đức Thế Tôn vì sông Hằng rộng lớn, nước nhiều, chỉ bấy nhiêu muối ấy không đủ làm mặn.

Cũng như thế, có trường hợp người kia vi phạm một lỗi mà chịu cảnh khổ, người khác cũng vi phạm tương tự mà chịu quả nhẹ hơn và sau khi chết, quả kia dầu nhỏ, không trổ sanh nữa.”

Trong sự báo ứng của Nghiệp có những năng lực hỗ trợ tạo điều kiện cho quả sớm trổ sinh và ngược lại cũng có những năng lực kìm hãm ngăn chặn không cho quả phát sinh. Những năng lực đó là:

– Sự sinh trưởng.

– Thời gian hay hoàn cảnh.

– Nhân cách hoặc sắc tướng.

– Sự nỗ lực cố gắng.

Sự tái sinh tốt có thể là một năng lực kìm hãm không cho quả dữ trổ sinh, trong khi đó nếu sinh trưởng trong gia đình hoàn cảnh nghèo khó thì sự tái sinh bất hạnh của người này tạo điều kiện thuận lợi cho quả dữ phát sinh.

Người đã gieo nghiệp tốt được tái sinh trong hoàng tộc, mặc dù không thông minh tài giỏi nhưng cũng được thiên hạ trọng vọng, trong khi đó cũng con người này nếu sinh trong gia đình bình thường thì ắt không được xem trọng như vậy.

Vua A –xà-thế tuy phạm tội lớn giết cha về sau gặp được thiện duyên tuy nhờ thân cận học Phật mà trở nên một vị minh quân có tâm đạo nhiệt thành nhưng do trọng tội đã phạm nên phải tái sanh vào cảnh khổ, ở nơi bất thuận lợi này mà bao nhiêu nhân lành ông đã gieo sau này cũng không đủ duyên hỗ trợ để trổ quả.

Thời gian hay hoàn cảnh cũng ảnh hưởng đến sự báo ứng của Nghiệp. Ví dụ tất cả mọi người đều phải cùng chung chịu một số phận trong một cảnh thiên tai.

Dung mạo đẹp đẽ hoặc xấu xí có thể hỗ trợ hay kìm hãm sự báo ứng của Nghiệp. Ví dụ như trường hợp có người nhờ Nghiệp lành mà được tái sanh vào hoàng tộc thành hoàng tử nhưng lại cũng vì Nghiệp mà bị tật nguyền thì cũng không hoàn toàn trọng hưởng được phước báu của mình, không được vua cha chọn lựa để truyền ngôi báu. Lại có trường hợp đứa trẻ nhờ diện mạo phương phi tuy sinh ra trong gia đình nghèo mà vẫn có thể gieo ít nhiều thiện cảm đến người khác.

Sự nỗ lực cố gắng là quan trọng hơn cả trong các năng lực trợ duyên và nghịch duyên của Nghiệp. Trong sự báo ứng của Nghiệp, sự chuyên cần và sự thiếu chuyên cần giữ một vai trò chính yếu. Do sự cố gắng hiện tại ta có thể tạo nghiệp mới, hoàn cảnh mới, môi trường mới, thậm chí cả một thế giới mới. Trong khi đó, dù đủ điều kiện thuận lợi và trợ duyên đầy đủ mà ta không nỗ lực cố gắng thì chẳng những ta bỏ lỡ một cơ hội quý báu mà có khi phung phí cả một sự nghiệp, thể chất lẫn tinh thần.

Nắm vững giáo lý Nghiệp báo từ sự vận hành của Nghiệp và năng lực trợ duyên hay nghịch duyên đối với Nghiệp để mà can trường vững bước trong cuộc đời mỗi người, biết khai thác phát triển các yếu tố thuận duyên, tìm phương tiện triệt tiêu ác duyên hầu tiếp nhận quả một cách an nhiên tự tại.

Niềm tin nơi Nghiệp báo nâng cao giá trị của sự tinh thần và kích thích lòng nhiệt thành, vì lý nghiệp báo dạy mỗi người phải lãnh lấy trách nhiệm của chính mình.

QUẢN LÝ NGHIỆP VÀ NGHIỆP BÁO

Nếu coi Nghiệp là đầu vào, khi gieo nhân nghiệp càng cẩn trọng bao nhiêu thì gặt quả đầu ra nghiệp báo càng an toàn bấy nhiêu. Làm sao có thể quản lý được đầu vào từ vô thuỷ kiếp? Chúng sinh trong biển vô minh mù mịt cần phải làm gì?

Mọi sự xảy ra trong cuộc đời mỗi người chúng ta đều do nghiệp chi phối. Sự có mặt của mỗi người là sự hiện hữu của nghiệp thiện hay bất thiện của quá khứ. Muốn biết nhân đời trước, nhìn hiện tại họ đang hưởng. Muốn biết quả đời sau, xét hiện tại họ đang tạo việc gì.”

Sự quán chiêu toàn diện của lý Vô Thường – Vô Ngã- và luật Nhân – Quả soi rọi trong thuyết nghiệp và Nghiệp báo của Phật giáo hoàn toàn có thể giải thích được cặn kẽ những điều kỳ diệu, hoặc tưởng chừng như bất công, vô lý trong hiện hữu của đời sống con người.

Dù muốn hay không muốn, biết hoặc không biết, để ý hay không để ý. Mặc nhiên, ai cũng phải tiếp nhận nghiệp báo, lớn hay nhỏ, lành hay dữ, và ai cũng vẫn đang tạo nghiệp mới trong từng nhịp sống của hiện kiếp. Mong ước tối hậu của con người là cả sự tiếp nhận và sự tạo mới sao cho được bình an. Hãy biết nhận thức để trong kiếp hiện tại này gieo thật nhiều nghiệp lành, trong sự xoay vần không ngừng của luật Nhân-quả thì ắt sẽ cải thiện được Nghiệp báo và gặt hái được những quả lành ngay trong kiếp này cũng như tương lai. Nhân lành xuất phát từ ý nghĩ, tư tưởng của chúng ta. Muốn làm việc lành thì phải khởi ý niệm lành. Ba nghiệp (thân, khẩu và ý) lành thì đời sống an lạc tốt đẹp. Tu tập ba nghiệp là điều rất cần thiết đối với người con Phật.

Sướng và khổ lưu xuất từ những hành động quá khứ của chúng ta. Để định nghĩa nghiệp (karma) trong vài chữ, người ta có thể nói: hãy làm tốt, tất cả sẽ tốt; nếu làm xấu, tất cả sẽ xấu.

Karma, nghiệp có nghĩa là “hành động”. Nó hoạt động theo ba mặt: thân, lời và ý. Nó sản sanh ra ba loại hậu quả: xấu, không xấu và trung tính, và diễn ra trong hai thời: trước tiên người ta nghĩ đến điều sắp làm, đó là hành động ý định, rồi những động lực tâm thức hiện thực thành một hành vi thân xác hay lời nói, đó là hành động cố ý.

Ví dụ, trong lúc này; khi phát biểu với một ý định nào đó, tôi hoàn thành một hành động thuộc về lời nói, vậy thì tôi cất chứa nghiệp. Với những cử chỉ của hai tay tôi, tôi làm sanh ra nghiệp về thân xác. Tính chất tích cực hay tiêu cực của những hoạt động này tùy thuộc động lực kích động tôi. Nếu động lực là trong sạch, nghĩa là nếu tôi nói với các bạn với sự thành thật, tôn trọng, trong một tinh thần vị tha, thì những hành vi của tôi sẽ tốt. Nếu tôi bị thúc đẩy bởi kiêu căng, thù hận, nói ác… những hành động thân và lời của tôi sẽ trở nên không tốt.

Những hành vi thường xuyên được sản sanh ra như vậy. Khi lời nói là sự biểu lộ của những động lực tốt đẹp, một không khí thân ái được thiết lập, nhưng vượt qua khỏi kết quả tức thời này, hành động để lại một dấu vết trong tâm thức diễn giả, dẫn khởi những hậu quả vui sướng trong tương lai. Nếu những lời nói của diễn giả che dấu một hậu ý gây tác hại, một không khí thù nghịch được thiết lập tức thì, với những hậu quả buồn thảm mai sau.

Khi đức Phật dạy rằng người ta là chủ nhân của chính mình, rằng tất cả tùy thuộc vào mình, có nghĩa là sung sướng và khổ sở đến từ những hành vi tốt và không tốt, rằng chúng hun đúc thành không phải từ bên ngoài mà ở nơi sâu xa nhất của chính mình. Cái nhìn này cho một cảnh trạng thực tiễn trong việc hàng ngày: khi tương quan giữa nhân và quả được thiết lập, người ta không cần nữa một ông cảnh sát nào để bắt buộc chúng ta phải cẩn trọng, lương tri sẽ thay thế chỗ ấy. Ví dụ, hãy giả thiết ở đây có một mớ tiền hay một viên ngọc quý và không có ai cả ở chung quanh, các bạn có thể dễ dàng chiếm lấy nó. Nhưng nếu các bạn biết rằng toàn bộ trách nhiệm về tương lai của các bạn đang nằm trong tay của các bạn, các bạn sẽ không làm thế.

Trong xã hội hiện đại, mặc dù những hệ thống cảnh sát rất phức tạp và kỹ thuật chúng ta rất cao, những hành vi khủng bố xảy ra cũng không kém. Một mặt, những người này dùng những phương tiện an ninh tối tân nhất để làm thất bại những kẻ mà ở mặt kia lại trở nên còn sáng tạo hơn trong việc thực hiện những trọng tội của họ. Người gìn giữ hòa bình thực sự duy nhất là nơi chính mình. Chính đó là “người canh đêm” ý thức về trách nhiệm của mình trong cái liên hệ đến tương lai của nó và nó quên chính mình cho hạnh phúc của tất cả.

Về phương diện thực hành, sự kiểm soát tốt nhất tội phạm là sự kiểm soát mà mỗi người thi hành trên chính mình. Sự thay đổi bên trong là cái có thể chấm dứt cho sự phạm tội và thiết lập hòa bình xã hội, nhưng nó đòi hỏi tự hiểu biết chính mình. Lý thuyết Phật giáo về sự tự trách nhiệm là đặc biệt thích đáng; nó dẫn đến tự hỏi và tự chế phục đồng thời trong lợi ích của riêng mình và trong lợi ích của người khác.

Về những hệ quả khác nhau của hành động, chúng cũng cần được nghiên cứu sâu. Một trong số đó được gọi là “quả của sự kết trái”. Giả thử, sau một hành vi xấu, một người nào đó chuyển đến trong một hóa thân xấu, dưới hình thức thú vật chẳng hạn; sự tái sanh này là một kết quả của sự kết trái mà nguyên nhân ngược về một đời nào trước đó. Cũng có cái mà người ta gọi là “kinh nghiệm về quả tương tự với nhân”. Đây là một trường hợp: hãy tưởng tượng rằng, sau khi di chuyển vào một tái sanh không may mắn sau một tội lỗi, các bạn tái sanh làm người, cuộc đời của các bạn sẽ ngắn ngủi: quả (một cuộc đời ngắn ngủi) với tư cách là cái được kinh nghiệm, tương tự với nhân (sự kiện đã rút ngắn cuộc đời người khác). Cũng có một hiện tượng gọi là “quả của sự hồi sinh bị điều kiện hóa” để có thể làm sáng tỏ sự kiện tự nhiên có khuynh hướng làm lại cùng loại hành động xấu như giết chẳng hạn.

Nhưng ví dụ này cũng áp dụng – trong những hậu quả ngược lại – cho kết quả của những hành vi tốt. Còn phải kể những hành động làm tập thể, mà những hệ quả của chúng được mọi thành viên kinh nghiệm. Trong trường hợp này, một toàn bộ những cá nhân có thể cùng được chuyển sanh để chia xẻ với nhau cùng một môi trường, cảnh giới nào đó.

Nhưng, tựu trung, mọi chỉ dẫn này về nhân quả của hành vi chỉ có ích lợi trong mức độ chúng góp phần vào việc cải thiện đời sống xã hội. Dầu chúng ta là tín đồ hay không, tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ cố gắng nghiên cứu những văn hóa riêng khác của chúng ta để đem làm của chung cái gì trong mỗi nền văn hóa có thể lợi lạc cho tất cả.

Tenzin Gyatso (Theo sách Trí tuệ và Đại bi)

13/07/2009 Posted by | c) PHẬT HỌC TỔNG QUÁT, d) PHẬT HỌC VẤN ĐÁP | Bình luận về bài viết này

VÒNG LUÂN HỒI – phần IV: VÒNG KHỔ

Photobucket

http://phattuvietnam.net/

Thích Nữ  Giới Hương

Theo bánh xe luân hồi này thì tùy quả báo mà chia ra thành có sáu cảnh giới, sáu loài, hay sáu cõi như cõi trời, a-tu-la, người, bàng sanh, ngạ quỷ và địa ngục. Theo kinh Lăng Nghiêm thì chúng ta có thêm một cõi nữa là cõi tiên. Nên nơi đây sẽ giảng thêm cảnh tiên thành ra có bảy cảnh giới.

Không gian không ngằn mé gọi là vũ. Thời gian không cùng tận gọi là trụ. Ở trong khoảng không gian vô cùng và thời gian vô tận đó, theo quan điểm của Phật giáo có vô lượng vô biên các loài chúng sanh đang tồn tại. Mỗi loại đúng theo tâm thể nhiễm tịnh, nghiệp duyên thiện ác sai khác, khiến sự thọ dụng cảnh giới của họ cũng có khổ đau hay hạnh phúc bất đồng.

Theo bánh xe luân hồi này thì tùy quả báo mà chia ra thành có sáu cảnh giới,  sáu loài, hay sáu cõi như cõi trời, a-tu-la, người, bàng sanh, ngạ quỷ và địa ngục. Theo kinh Lăng Nghiêm thì chúng ta có thêm một cõi nữa là cõi tiên. Nên nơi đây sẽ giảng thêm cảnh tiên thành ra có bảy cảnh giới.

1/ CÕI TRỜI

Do phước báo bố thí và thiền định, nên cõi trời có chánh báo và y báo như cảnh vật vui tốt, mọi người vui sướng, căn thân đẹp đẽ, thọ mạng lâu dài, đặng phép thần thông, dạo đi tự tại, những đồ y phục sẵn có, những cuộc du hí đủ bày, trăm thức tự nhiên thọ dụng đủ điều khoái lạc, không có những sự khổ như ở nhân gian. Các phước báu trong cõi đó, tuy là mỹ mãn như thế nhưng còn thuộc về hữu lậu, có hư có mất, không có chắc chắn, đó chính là sự vô thường, tướng vô định… Thế nên dẫu có sống đến mấy ngàn năm đi nữa, cũng không khỏi con ma sanh tử lôi kéo.

Kinh Tăng chi dạy: Nữ nhân mạng chung được sanh lên trời và tự tại trong ba địa hạt (nhan sắc, âm thanh và lạc thọ) là do vị ấy có tám điều như:

1. Tận tâm thương quý gia đình
2. Tôn trọng sư trưởng và thân quyến
3. Hết lòng quán xuyến việc nhà
4. Đối xử thích hợp với người giúp việc
5. Kỹ càng bảo quản tài sản
6. Quy y Tam bảo
7. Giữ năm giới
8. Hoan hỉ bố thí.

Thường ta nghe nói hiện tiền giữ 10 giới thì khi mạng chung được sanh lên cõi trời. Tròn năm giới thì được làm người. Nhưng ở đây kinh Tăng Chi chỉ ra giữ năm giới cũng được sanh lên trời và tự tại trong ba địa hạt (nhan sắc, âm thanh và lạc thọ) là nhờ do công đức tròn bổn phận của mình đối với gia đình và xung quanh.

Như vậy, thật ra ở cương vị nào cũng được, chỉ cần thiện chí, có trí tuệ tháo vác mong đem an vui cho người, không cầu tư lợi. Cử chỉ săn sóc, ánh mắt ưu ái, lời nói ân cần, hoà nhã lịch sự, siêng năng phụng sự xung quanh là nhân thiết yếu để sanh thiên.

Những chúng sanh hưởng thụ cảnh giới tốt hơn người gọi là trời. Có ba cõi trời:

1. Có những loài trời còn nghĩ ít nhiều đến sự ái ân thì gọi là loài trời Dục giới.
2. Có những loài trời thoát ly ngũ dục nhưng còn sắc thân thì gọi là loài trời Sắc giới.
3. Còn thoát ly ngũ dục và không sắc thân thì gọi là loài trời Vô Sắc giới.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm[14]  dạy rằng:

I/ Dục Giới Thiên (có 6 cõi trời Dục giới)

1. Tứ Thiên Vương: vẫn ái ân với vợ hoặc chồng nhưng không tà hạnh, tâm sáng suốt, mạng chung sống gần mặt trời và mặt trăng.
2. Đao Lợi Thiên: ít ái ân với vợ hoặc chồng và thường tịnh cư,  tâm sáng suốt, mạng chung vượt lên mặt trời và mặt trăng, ở trên chóp nhân gian.
3. Tu Diêm Ma Thiên: ít nhớ nghĩ việc ái ân, sống động ít, tĩnh nhiều, tâm sáng suốt, sáng rỡ ở cõi hư không mà ánh sáng mặt trời và mặt trăng không soi đến được.
4. Đâu suất đà thiên: lúc nào cũng tĩnh, nhưng khi có cảm xúc vẫn bị chi phối, mạng chung sanh lên chỗ tinh vi, những hoại kiếp và tam tai của nhân thiên cõi dưới không đến được.
5. Lạc biến hoá thiên: không còn ân ái dù có phải đáp ứng nhưng thấy vô vị như ăn sáp. Mệnh chung sanh vào cảnh biến hóa.
6. Tha hóa tự tại: không có tâm thế gian, chỉ đồng với thế gian mà làm ngũ dục, khởi tâm chán bỏ (chánh nhân khiến lên vô sắc giới). Mạng chung vượt lên những cảnh biến hoá và không biến hoá.

Sáu cõi trời như thế hình thức tuy khỏi động, nhưng tâm tính còn dính dấp ngũ dục. Từ các cõi trời ấy trở xuống gọi là Dục giới.

Trong Nhị khoá hiệp giải và Thắng pháp tập yếu luận nói rằng: tuổi thọ của cõi trời bằng mấy trăm ngàn tỷ năm con người.

Cõi Lục Dục thiên này cùng với loài người, súc, quỷ, địa ngục… là ở trong Dục giới.

II/ Sắc giới: các trời này thoát ly ngũ dục thường ở trong định, không dính dáng với trần cảnh, song chưa hết cái lụy hình hài nên gọi là sắc giới. Có 18 loài trời như

1. Trời Phạm chúng
2. Trời Phạm Phụ
3. Trời Đại Phạm -> Sơ Thiền (ly sinh hỉ lạc địa)
4. Trời Thiểu Quang
5. Trời Vô Lượng
6. Trời Quang Âm ->Nhị Thiền (Định sinh hỉ lạc địa)
7. Trời Thiểu Tịnh
8. Trời Vô Lượng
9. Trời Biến Tịnh -> Tam Thiền (Ly hỉ diệu lạc địa)
10. Trời Phúc Sinh
11. Trời Phúc Ái
12. Trời Quảng Quả
13. Trời Vô Tưởng
14. Trời Vô Phiền
15. Trời Vô Nhiệt
16. Trời Thiện Kiến
17. Trời Thiện Hiện
18. Trời Sắc Cứu cánh -> Tứ thiền (Xả niệm thanh tịnh địa)

Theo dòng vận hành của tâm, nếu xả bỏ tham sân si, mạn, tà kiến (10 triền, 10 sử)[15]  thay vào đó cho hiện khởi hỉ, định, lạc xả thì tùy khả năng tâm đạt, tùy sức mạnh điều ngự tâm của mình mà có cảnh giới khác. Như pha ly cafê sữa vậy, tùy sữa nhiều hay ít mà lạt màu.

III/ Trời Vô Sắc: không có sắc pháp ở trong và ngoài nên gọi vô sắc

1. Trời Không Vô Biên Xứ
2. Trời Thức Vô Biên Xứ
3. Trời Vô Sở Hữu Xứ
4. Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ

Thắng Pháp Tập Yếu luận cũng trình bày khá đặc biệt về kiết sanh thức hay kiết sanh tâm liên hệ giữa đời này và đời sau của nhiều cảnh giới từ địa ngục cho đến cõi cao nhất của vô sắc giới. Như kiết sanh thức có bốn loại:
a. Ác thú (địa ngục, ngạ quỷ và bàng sanh) kiết sanh thức
b. Dục giới thiên sanh thức
c. Sắc giới thiên sanh thức
d. Vô sắc giới thiên sanh thức.

Ở các cõi trời này do phước báo nên y báo và chánh báo đều tốt hơn cõi người, nhưng phải biết sau một thọ mạng dài lâu huởng vui, nghĩa là sáu căn bị gây mê tham luyến các dục (dục giới), an hưởng trạng thái an lạc của thiền (sắc giới và vô sắc giới) trụ vào tư thực [16] kéo dài mạng sống, số đông chết đều đọa ác thú. Nên chư Phật thường thành đạo ở cõi người và khuyên đệ tử coi cõi trời là hiểm nạn chướng ngại sự giải thoát, không nên cầu về.

2/  ĐẠO TIÊN HAY CÕI TIÊN

Thật ra nói đủ là bảy cõi. Sáu cõi cộng thêm cõi tiên.

Tiên là một loài chúng sanh nửa trời và nửa người. Kinh Thủ Lăng Nghiêm [17] dạy có những chúng sanh từ loài người, không tu theo giới định tuệ mà tu theo vọng niệm, vọng tưởng luân hồi lưu chuyển để củng cố hình hài vào trong rừng núi, ăn trái cây sống, hoặc trên đảo giữa bể, tâm tĩnh lặng luyện thân, không vướng vào những vinh nhục thế gian, nên thành mười thứ tiên sống lâu ngàn vạn tuổi, nhưng cuối cùng rồi cũng chết, vì không tránh được quy luật sống chết.

Ở đây cho thấy tư tưởng, có thể thay đổi lối sống bình thường của con người, kéo dài sự sống đến một thời gian rất lâu. Những phim chưởng của Trung Hoa, Đại hàn xuất phát từ nguồn gốc đạo tiên này rất nhiều.

Có 10 loại tiên:

1. Có loại chúng sanh dùng đồ bổ không dừng nghỉ, kiên cố và đạo ăn thành tựu thành Địa hành tiên.
2. Có loại chúng sanh dùng cỏ cây không dừng nghỉ, kiên cố và đạo thuốc thành tựu thành Phi hành tiên.
3. Có loại chúng sanh dùng kim thạch không dừng nghỉ, kiên cố và hóa chất thành tựu thành Du hành tiên.
4. Có loại chúng sanh dùng luyện những động tác không dừng nghỉ, kiên cố và đạo khí tinh thành tựu thành Không hành tiên.
5. Có loại chúng sanh dùng nước bọt không dừng nghỉ, kiên cố và đạo  nhuận đức thành tựu thành Thiên hành tiên.
6. Có loại chúng sanh dùng tinh hoa không dừng nghỉ, kiên cố và đạo hấp thụ thành tựu thành Thông hành tiên.
7. Có loại chúng sanh dùng phù chú không dừng nghỉ, kiên cố và đạo  thuật pháp thành tựu thành Đạo hành tiên.
8. Có loại chúng sanh dùng chú tâm chuyên niệm không dừng nghỉ, kiên cố và đạo chuyên niệm thành tựu thành Chiếu hành tiên.
9. Có loại chúng sanh dùng quán về thủy hoả giao cấu không dừng nghỉ, kiên cố và đạo cảm ứng thành tựu thành Tinh hành tiên.
10. Có loại chúng sanh dùng tập luyện biến hoá không dừng nghỉ, kiên cố và đạo biến hoá thành tựu thành Tuyệt hành tiên.

3/ A-TU-LA

Đây cũng là một loại có phước nhưng hay tranh chấp. Anh hùng nghĩa khí có làm nhiều phước thiện mà hay tranh đấu sát phạt nhau, hơn thua lẫn nhau, lấy nghĩa khí thắng hung tàn, không khuất phục, đấu tranh không ngừng nghỉ… những loại chủng tử đó sẽ sanh về cõi đây.

Có bốn loại a-tu-la:

1. Có chúa a-tu-la trời, biến hoá sanh (thuộc loài trời), sức mạnh, tranh quyền với Đế thích và Tứ thiên vương, nên trong tranh vẽ các vị này tối ngày cầm cung, súng sát phạt lẫn nhau.

2. A-tu-la người (thuộc người), thai sanh, ở gần mặt trời, mặt trăng. Từ  trời đọa xuống vì do kém phước đức

3. A-tu-la quỷ (thuộc quỷ ở trời), từ trứng sanh ra. Sống ở hư không. Có vị phát tâm bảo hộ chánh pháp. Nên cuối mỗi buổi tụng kinh, ở chùa hay tán bài:

4. A-tu-la bàng sanh (thuộc bàng sanh), nhân thấp khí sanh ra, ở trong biển lớn lặn trong thủy huyệt. Ngày đi chơi trong hư không, đêm ngủ dưới nước.

4/ CÕI NGƯỜI

Trên hành tinh trái đất này chúng ta có năm châu là Châu Á, Châu Âu, Châu Úc, Châu Mỹ, Châu Phi, Nam và Bắc cực.

Đức Phật đã bảo ngài Mục Kiền Liên minh hoạ bức tranh của kiếp người có tám khổ như sanh, lão, bịnh, tử, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ và ngũ ấm xí thịnh. Nào là có cảnh chiến tranh, xe tăng, súng đạn, có nạn lũ lụt, cháy nhà, lũ lụt, cảnh em ra đời, lớn lên, nằm ở giường bịnh, già yếu chống gậy và quan tài chờ đợi.

Khi tinh trùng của người cha kết hợp với tiểu noãn của người mẹ, thần thức gá vào và lúc đó bắt đầu một kiếp sống mới. Và tùy theo nghiệp lực của mình mà tinh trùng hay trứng đó là của loài người hay loài thú.

Cũng như loài vật, con người sanh từ bụng mẹ (bụng của con người). Chỗ sanh bất tịnh là tử cung, cạnh vòng ruột già non, trong máu tanh, nước nhớt và vừa là thức ăn. Đây là nơi bắt đầu thành thân, thật chẳng đáng tự hào chút nào!

5/ BÀNG SANH

Súc sanh là một trong những loài chúng sanh trú trong vũ trụ bao la này. Có nhiều loại súc sanh như:

A. Loài có xương sống:

1. Bốn chân: Bò, trâu, sư tử, gấu, voi, hươu, nai, bò tót mọc sừng, lừa, lạc đà, khỉ, vượn, ròng rọc, đười ươi, cọp, beo, báo, sói, thỏ, mang (con đỏ), nhím, chồn, cáo, ngựa, heo, dê, mèo, chó, chuột, tắc kè, thằn lằn, kỳ nhông, thạch sùng, rắn mối, kỳ đà, hoang, rái nước, heo rừng, tê giác, trâu nước, nhái, cóc, ếch, chằng hiu…

2. Hai chân: Gà, vịt, ngỗng, ngan, chim…

3. Không chân: Rắn, trăn, trùng, giun, lăng quăn, dòi, sâu, lải…

B. Loài không xương sống: Cuốn chiếu, bọ chét, rết, nhện, sâu, bọ nẹt, kiến, gián, mối, sùng, bò cạp, chấy, rận, ve sầu, tằm, giun, nhộng, ong, tò vò, phù du, mọt, rệp…

C. Loài không xương sống có cánh: Bướm, chuồn chuồn, đom đóm, bù xoè, châu chấu, cào cào, muỗm, bọ ngựa, ong, mối, nắc nẽ, dế, ve sầu, muỗi, ruồi, rầy, thiêu thân, cánh cam, bọ hung…

D. Loài dưới nước: Cá, sứa, mực, cua, sò, tôm…

Giới Bồ tát dạy chúng ta mỗi khi gặp một loài thú nào cũng nên quy y và chúc nguyện cho chúng.

Nguyện tình thương của chúng ta lan toả đến các loài bàng sanh đang có mặt trên khắp hành tinh này.
Nguyện chúng sớm bỏ thân thú thành người gặp Tam Bảo[19]  tu hành.

Chúng ta đọc tên từng loài, quán tưởng những hình tướng khốn khổ của chúng với một tấm lòng tận thân tâm thương xót chúng, ban rải tình thương đến chúng, kết thắng duyên Tam Bảo để sau này chúng gặp được nhân duyên tam bảo mà tỉnh ra. Một con chim xinh xắn, chúng ta vuốt ve yêu mến và đâu biết rằng sau chúm lông xanh, vàng, đỏ, tía đó là chất chứa vô vàn đau đớn, khốn khổ chập chùng.

Trong vòng sanh tử vô tận biết bao nhiêu lần chúng ta đã mang những lớp da thú này. Phải né, phải tránh, không nên gieo những chủng tử gà, rắn, heo để đừng tái sanh vào cõi bàng sanh.

Đức Phật dạy cái khổ ngu si là đáng sợ hơn cả. Ngu si là mê muội, không biết tránh ác làm lành để đến nỗi tự đọa đày, đọa vào thân thú, địa ngục và ngạ quỷ.

Tranh minh họa hình con giun đang bị cắc kè cắn. Con rắn thì nuốt cắc kè. Con kên kên nuốt mồi rắn ngon. Anh thợ săn đang ngắm bắn kên kên. Bức tranh của thế giới ỷ mạnh hiếp yếu. Loài lớn ăn loài nhỏ. Sự sống ăn nuốt sát hại lẫn nhau vì bản năng duy trì mạng sống của mình. Cảnh thú sống trong sợ hãi, hoảng hốt và hãi hùng vì đồng loại thú và cả loài người luôn tìm cách giết lấy mạng chúng.

Trên cạn, ngựa kéo xe đói khát, chở nặng, đi xa, roi vọt. Dưới nước, cá lớn nuốt cá bé. Trâu cày bừa sớm chiều nắng mưa quần quật làm việc. Tối về chuồng là nơi chủ tích trữ phân và nước tiểu của nó để bón ruộng. Suốt đêm trâu chịu các thứ muỗi mòng tấn công mà nào có tay để xua đuổi. Sáng ra tiếp tục cày bừa dưới nắng mưa cực nhọc. Lỡ đau ốm không làm việc được thì chủ vội vàng đem giết thịt bán để gỡ vốn. Một đời như vậy liệu tinh thần có đi lên không? Một đời như vậy liệu chúng ta giảng pháp, thú có hiểu không? Thế nên bàng sanh là một ổ phiền não, một ổ khổ và một ổ đọa lạc.

Một khi đã đọa mang lớp da thú thì trăm kiếp ngàn đời khó ngóc đầu ra. Muôn loài vạn vật, sống đọa đầy, chết đắng cay. Một con bọ chét chạy trong người, ta không chịu được thế mà chó mèo gà vịt ngày đêm hàng trăm bọ mạt rúc rỉa mà cứ phải chịu trọn đời, không một lúc nào ân xá. Cho nên, chúng đọa lạc và chịu đầy đau khổ thương tâm lắm.

Thông thường tội nào nặng lắm mới đọa làm thú. Dưới ánh mắt của con người thì loài thú không có nhiều giá trị và xem như thuộc ‘đẳng cấp’ thấp so với loài người.

Thường thì con người dùng thú vật có nhiều lý do như để làm thức ăn khoái khẩu cho người, thực hiện các thí nghiệm khoa học hay phục vụ con người… Mặc dù thời gian gần đây ở các nước tiên tiến có luật bảo vệ thú vật hoặc có luật bảo vệ các loài có nguy cơ tuyệt chủng, nhưng nói chung, thú vật vẫn thuộc ‘đẳng cấp’ thấp kém so với loài người.

Vì sao đọa mang thân thú? Ai tạo những nghiệp bỉ ổi, thấp hèn, mất giá trị, mất nhân phẩm sẽ bị đọa làm thú và ở thân thú này chúng bị coi thường và khinh rẻ.

Những nghiệp nào là hèn hạ và mất nhân phẩm? đó là tà dâm, loạn luân, phá vỡ luân thường đạo lý loài người, dục vọng không biết kềm chế, không có lý trí hướng dẫn, rõ ràng tương đương với dục vọng của loài thú. Hạnh nghiệp giống với loài thú đưa tác giả đi đến kiếp thú về sau. Hoặc lòng ích kỷ tột độ biến thành hành vi tranh giành xâu xé đồng loại không thương tiếc cũng rất giống với loài thú; dùng thủ đoạn để bức hại kẻ khác, sống cho bản năng ích kỷ chỉ nghĩ đến mình thì sẽ đọa làm thú là điều không tránh khỏi.

Kinh dạy: Nhất thiết duy tâm tạo. Mang lông đội sừng hay thành Phật làm tổ cũng chỉ do tâm ta. Loài vật cũng bẩm ngũ hành[20] , cũng ngậm tứ tượng[21]  cũng biết đau ngứa, no đói, cũng yêu ghét sợ hãi, nơm nớp sợ chết, lo lắng tham sống, tránh khổ cầu an như ta. Vậy mà chúng ta nỡ nào ăn thịt nó, giết nó chỉ để ngon miệng trong chốc lát nơi tấc lưỡi, nuốt xuống cuống họng là hết. Đặt mồi lập mưu, khiến sa lưới mắc bẫy, thật là độc ác, tàn nhẫn. Lại nói ‘thiếu tiền của ta, làm thú trả ta’ hoặc ‘ta hưởng lộc trời’ hoặc ‘vật dưỡng nhân’ ‘chết là hết, tha hồ ăn, không sợ gì’. Cứ thế mà luân chuyển oán thù, cùng nhau đi mãi trên đường đau khổ.

Nhà nho nói: Thấy con thú đương sống, chẳng nở thấy nó chết. Nghe tiếng nó sợ hãi kêu la, chẳng nỡ ăn thịt. Cho nên đã là quân tử đâu có sát sanh. Nhà nho còn nói thế, huống chi chúng ta là Phật tử, con nhà họ Thích.

Bởi vì tất cả đều có Phật tánh, nên tất cả loài noãn, thai, thấp, hoá đều là chư Phật vị lai. Bởi vì cùng nhau ở trong vòng luân hồi nên tất cả các loài bay, chạy, bơi, lội đều đã từng là cha mẹ quyến thuộc lẫn nhau với ta. Phải có lòng tin bất động với điều này thì chúng ta sẽ có sự chuyển đổi ở cách nhìn và cách sống.
Thấy mũi tên con vượn hồn bay. Thấy giương cung con nai rơi mật. Nỗi chua cay nát óc bể đầu, niềm đau khổ suốt lưng qua bụng. Dùng tim gan nó để ngon miệng mình trong khoảnh khắc. Mai đây chịu rừng núi kiếm dao, cả trăm ngàn kiếp trong địa ngục. Còn dư báo lên làm thân heo gà để chịu mổ đâm quay nướng, mang yên ngậm sắt ngựa lừa, tôi tớ phận chó, cày bừa thân trâu…

Chúng ta cứ lấy thống khổ làm trò vui chơi. Giết hại sinh linh thết khách bày tiệc mời người ăn. Con gà, con heo, con trâu bị cắt cổ giãy giụa kêu la, lại đem thêm nước sôi dội xối; trong khi trên thềm nhóm họp bạn bè, dưới thềm âm nhạc vui vầy đờn ca, bàn chuyện thị phi thiên hạ. Đình thần đền miếu đều là những đàn tràng gây oán. Thui ngan, nướng vịt, mổ heo, thịt dê khác gì quỷ la-sát, dạ-xoa…

Phải 500 con tằm mất mạng mới thành một chiếc khăn. Mấy chục con thỏ chết mới có chiếc áo ấm. Người có tâm hãy suy nghĩ, nỡ nào an lòng mặc dùng. Chúng ta cứ ăn thịt mà không biết nỗi đau của một con vật bị giết hay bị đưa lên lò sát. Xin được kể một câu chuyện minh hoạ rằng:

Có một anh thanh niên nọ có thói quen săn thú. Một hôm rượt đuổi theo dấu máu của con nai bị trúng tên, cuối cùng anh thấy nai nằm thở thoi thóp dưới chân một nhà ẩn sĩ đang toạ thiền trên tảng đá. Nhà ẩn sĩ khuyên anh nên bỏ thú vui này vì hãy thương nổi đau đớn của nai khi trúng tên như nỗi đau của mình. Anh đứng im lặng.

Nhà ẩn sĩ liền dùng ngón tay của ngài ấn vào mình con nai đã chết, còn tay kia nắm lấy tay của chàng thợ săn, truyền nỗi thống khổ của con nai lúc chết cho chàng. Vừa đụng vào thì anh biến sắc, anh như cảm nhận được nổi đau khổ về thể xác và tâm linh của con nai lúc chết. Anh như thể nghiệm được toàn bộ quá trình cái chết của con nai, toàn thân toát mồ hôi lạnh, nhịp tim dần dần ngưng lại. Anh đau đớn và hiểu được săn bắn là một hành động ngu xuẩn, từ đó anh không dám săn bắn nữa.

Nhân có nhân quyền, còn thú? Khi văn minh nhân loại tiến bộ, khi tư duy con người phát triển cao hơn, khi thế giới tâm linh con người phát huy tuyệt đối đến mức cao nhất, ta và chúng sanh bình đẳng, lý trí dần dần vượt khỏi sự kềm tỏa của bản ngã, sẽ thấy tha và tự giống nhau và ngay cả thú cũng bình đẳng, thì lúc đó hy vọng thú cũng được tôn trọng, thương yêu và đối xử như con người.

Có chuyện kể một bà già Tây Tạng sau khi trải qua bão tuyết mấy ngày trời liên tục, nhà đã hết lương khô, bà chống gậy lần xuống núi để mua thực phẩm. Dọc sườn núi, các nông trại, vườn rau, đồng lúa đều một màu trắng lạnh tang tóc không có sức sống. Quá đói và mệt, bà ngồi xuống tảng băng để nghỉ chân và lôi trong giỏ khúc bánh mì khô cuối cùng ra để gặm. Chợt ngó lên, bà thấy một con chó đói đang lết thết bò đến gần bà. Nó lạnh run lập cập, lông của nó không đủ cho nó ấm. Bao tử của nó xẹp lép ôm lấy xương sườn vì quá đói, ai đâu cho nó ăn? Bà vội cởi bớt một tấm vải choàng cũ trùm nó lại và khúc bánh mì, bà bẻ hai, chia đều để trước mặt nó một phần, bà một phần. Rồi cả bà và nó cùng nhau mỉm cười ăn ngon lành.

Câu chuyện chỉ đơn giản như vậy. Nhưng để lại ý nghĩa thật sâu sắc. Bà già cũng đã thấy được mình và chó bình đẳng như nhau, nên dù đang đói, khúc bánh mì cũng sẵn sàng chia đôi, manh áo sẵn sàng bớt một cái. Nếu như tâm lý bình thường của mình, có thể chúng ta cho vị trí của chó là thấp kém, nên nếu có thương, cho nó ăn thì ta chỉ bẻ khúc đuôi và bẻ một ít thôi vì để dành còn ngày mai mình ăn nữa chứ… Vì thế lòng từ chúng ta có giới hạn.

Luật Sa-di kể chuyện rằng có một tam tạng pháp sư lên chánh điện, thấy một lão tăng tụng kinh, liền nói đùa: “Sư tụng kinh giọng ồ ề như chó sủa”. Vì lời khinh mạn bông đùa ấy, vị sư phải chịu 500 đời làm thân chó. Đời cuối cùng, con chó ăn vụng thịt, bị chủ chặt cả bốn chân, vứt xuống hố.

Ngài Xá Lợi Phất đi qua cho chó ăn cơm, thuyết pháp và chúc nguyện. Con chó chết, đầu thai làm con một trưởng giả tên Quân Đề. Quân Đề mới lên bảy tuổi đang chơi ngoài cửa, thấy Xá lợi phất khất thực đi qua liền xin cha cho xuất gia. Sau khi xuất gia, dưới sự hướng dẫn của tôn giả Xá lợi phất, Quân Đề đã chứng A la hán.

Thế đó, một lời nói bông đùa mà nguy hại phải 500 đời làm chó. Nếu không phải là tam tạng pháp sư có công phu tu hành thì làm sao gặp được thánh tăng để chấm dứt con đường đọa lạc.

Kinh Địa tạng dạy: Chúng sanh trong cõi diêm phù, cất chân dấy niệm đã phạm tội. Gặp việc thiện thì dễ thoái tâm. Gặp ác duyên lại càng thêm mạnh. Nếu không gặp thiện tri thức sẽ khổ mãi không cùng.

Tóm lại, từ chỗ bản lai thanh tịnh, một niệm bất giác sinh sở năng mà có y báo, chánh báo, có sinh vật xuất hiện, rồi sau đó động vật chính thức ra đời có tâm thức phức tạp, có tạo nghiệp nhân để thọ quả báo.

Ai đã làm thành động vật có tâm thức để cho động vật đó phải lăn lóc đấu tranh vì sự sống một cách cực khổ? Chính những tâm thức của chúng ta tạo ra.

Trong sự đấu tranh sinh tồn đó, các động vật khi thì giúp đỡ lẫn nhau (thiện), khi thì xâu xé lẫn nhau (ác) để tạo thành vô số nghiệp thiện ác lẫn lộn thúc đẩy chúng trôi lăn trong luân hồi mai sau.

6/ NGẠ QUỶ

Ngạ quỷ cũng là một trong vô số các loài chúng sanh trong vũ trụ này. Loài chúng sanh này có sự thọ dụng cảnh giới thuần khổ và bị đói khát liên tục. Nguyên nhân căn bản là do những chúng sanh này khi sanh tiền tâm chứa đầy những ý niệm tham lam, bỏn xẻn, không thích làm những việc lành, bố thí, cúng dường, sau khi chết đọa vào cảnh giới ngạ quỷ.

Quỷ thường chịu hai báo chướng:

1) Nội chướng: Cổ như cây kim, miệng như ngọn đuốc, bụng to như cái trống và toàn lửa, rất khó uống ăn. Đây là quả báo của những tâm hồn khô khan, bỏn sẻn không biết bố thí. Có quỷ ăn được nhưng thức ăn vào bụng liền biến thành gươm đao, đâm lại vào da thịt mình. Đây là vì đã bố thí với độc tâm hoặc ác khẩu.

Buổi chiều là giờ ăn của quỷ,[22]  nên trong chùa khuyên tránh ăn chiều tối. Nếu có ăn thì xem đó như dược thực (thuốc để chữa bịnh đói khát, khô gầy) và tránh đừng khua đũa bát khiến quỷ thấy sự ăn uống, vì thèm khát miệng phực ra lửa.

Như ngài Mục Kiền Liên dâng cơm cho mẹ. Bà Thanh Đề đói quá, một tay bốc ăn, một tay che, sợ quỷ khác giành ăn. Nhưng cơm vừa đưa đến miệng liền hoá than hồng. Bà đói khát cùng cực mà không thể thọ dụng thức ăn được.

2) Ngoại chướng: Quỷ ở trong cảnh lửa hoặc máu mủ, bị dao đâm gậy đánh liên tục. Dòng sông đối với quỷ nếu không là máu mủ thì cũng khô cạn toàn là cát nóng. Có ngạ quỷ ở trong sông nước cả ngàn năm mà không sao hớp được một ngụm cho đỡ khát, chỉ thấy toàn sạn cát nóng. Cảnh trăng thanh gió mát thì do nghiệp báo quỷ thấy thành mặt trời nóng bức và ngược lại. Cây trĩu đầy quả thì thấy khô cằn héo hon không có trái nào và ngược lại.

Quỷ có bốn loại:

1/ Có phước: nên được ăn uống nhiều: a) Có thế lực lớn, cung điện trang nghiêm; b) Trông mong thờ cúng, đi trên hư không hoặc ở nhà xưa của mình hoặc ở mộ địa được bà con cúng (vì trước có bố thí); c) Ăn đờm dãi, phân uế và các thứ thiu thối.

2/ Ít phước: được ăn chút ít: a) Lông kim: tự đâm, đâm thân mình, đau đớn cuồng chạy, lâu lắm mới được ăn chút nhơ bẩn; b) Lông thối: Cào vốc nhổ lông vì mùi hôi thối khiến rách da xé thịt, đau đớn ngày đêm, lâu lâu mới được ăn chút nhơ bẩn; c) Bướu lớn: Nhức nhối, chảy mủ máu hôi thối, bốc lấy ăn cho đỡ đói.

3/ Không phước: Chẳng được ăn uống, đói khát cuồng chạy: a) Miệng thối; b) Toàn thân là lửa như cây đuốc; c) Họng kim, bụng lớn như cái núi.

Có rất nhiều quỷ như:

1. Quỷ bị vạc nước sôi nung nấu (làm nghề sát sanh hoặc có nợ không trả mà còn chống cự)
2. Miệng nhỏ như trôn kim
3. Ăn đồ mửa
4. Ăn phân
5. Ăn lửa
6. Ăn hơi
7. Ăn pháp (xưa kia nói pháp cầu lợi, nay đói khát, chỉ nhờ nghe pháp mà mạng được tồn tại)
8. Khô khan thèm nước uống
9. Hy vọng trông mong bà con cúng vái (buôn bán dối trá lấy vật của người)
10. Ăn đồ khạc nhổ (đã đem đồ bất tịnh cúng tăng)
11. Ăn tràng hoa (đã ăn trộm hoa của tam bảo)
12. Ăn máu (hay sát sanh)
13. Ăn thịt
14. Ăn nhang (hay ngửi và trộm nhang của chùa)
15. Đi nhanh, lửa cháy đốt thân
16. Mỗi lông trong mình đều tuôn lửa
17. Hắc ám: ở chỗ tối tăm có rắn cắn mổ (xưa kia vì mưu cầu tiền bạc mà vu oan)
18. Đại lực thần thông nhưng chịu nhiều khổ não (ăn trộm của người này, đem cho người khác)
19. Lúc nào cũng có cảm giác bị phừng cháy (giết người, cướp của)
20. Rình con nít đại tiện, tiểu tiện để ăn hơi khí bất tịnh
21. Dâm dục (quyến rũ người làm việc này để lấy tiền sinh lợi như tú bà tức chủ chứa gái)
22. Ở cồn biển (do lừa gạt người bịnh lấy tiền)
23. Cầm gậy hầu (làm quan nịnh vua tạo ác)
24. Ăn thịt con nít
25. Ăn tinh khí người
26. La sát (sát sanh)
27. Ăn lửa (tham ăn vật của tăng và Tam Bảo)
28. Ở các đường hẻm ăn đồ bất tịnh
29. Ăn gió (ưa hứa xuông, rồi không làm)
30. Ăn than (hành hạ tội nhân không cho ăn uống)
31. Ăn chất độc
32. Ở cánh đồng
33. Ăn tro nóng, chỗ thiêu thây người chết
34. Ở dưới gốc cây (người trồng cây để bố thí, mình ác tâm chặt đi)
35. Ở các nẻo đường giao thông (bóc lột khách đi đường)
36. Mara: Ma quỷ phá hoại người tu hành

Có bốn Thiên vương thống lãnh tám bộ quỷ thần:

1. Càn thát bà (nhạc thần)
2. Cưu bàn trà (hung dữ)
3. Tỳ xá dà (ăn tinh khí)
4. Tiết lệ đa (quỷ đói)
5. Phú đơn na (hôi thối)
6. Dạ xoa
7. Quỷ truyền thống
8. La sát (ăn thịt người)

Đó là quỷ, còn ma thì thế nào? Ma tiếng Phạn là Mara nghĩa là hay cướp mạng, làm chướng ngại, làm rối rắm, làm phá hoại, não hại

Có bốn loại ma:

1) Phiền não ma: phiền não tham sân si, 10 triền, 10 sử hay làm tổn thương não hại nơi thân tâm nên gọi là ma;
2) Ấm ma: vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức hay sinh ra điều khổ não nên gọi là ma;
3) Tử ma: Cái chết nó hay đứt dựt các căn (gân máu) sanh mạng của chúng ta;
4) Tha hoá tự tại Thiên tử ma: tức ma Ba tuần ở từng trời thứ sáu của cõi dục giới hay phá rối bậc tu hành.

Ngạ quỷ và quỷ thần là khác nhau. Quỷ là đọa lạc đói khát, còn quỷ thần như đại lực quỷ vương, a-tu-la… là những quỷ có phước báo và thần thông, sống ở cõi trời và hộ chánh pháp. Họ có thể dùng thần thông dời núi lấp sông. Có vị ẩn hiện biến hóa kém hơn và có vị có oai đức chủng loại vô lượng. Các chánh thần có phước đức ở núi cao, sông lớn hưởng nhân gian cúng dường. Quỷ có phước không đức như dạ xoa, la sát, lị mị… hưởng cúng máu huyết của các thịt tế thần.

Nói chung, ma quỷ là những chúng sanh đói khát, khổ đau và cô đơn. Vì thế ta phải làm thế nào để giúp cho ma quỷ tỉnh ra được và mở cổ họng ra được. Chúng ta phải có lòng từ, kiên nhẫn và phải có định lực.

7/ ĐỊA NGỤC

Trong tranh vẽ cảnh địa ngục có cột đồng nóng bỏng, tội nhân nằm trên giường chông sắt nhọn hoắt, núi đao, rừng kiếm, suối máu nóng tưới vào thân. Có tội nhân chịu hầm xương thịt, có tội nhân bị treo trên nọc có đại bàng, chim cú tới thay nhau mổ rỉa thịt ăn và lửa đỏ cháy khắp nơi.

Những đau khổ ở cõi này kéo dài từ kiếp này sang kiếp khác. Đức Phật tận tình khuyên chúng ta phải tránh mười tập nhân địa ngục. Đó là tham dục, tham của, khinh mạn, sân giận, giả dối, lừa gạt, hiềm oán, ác kiến, vu vạ và che dấu lỗi mình, bới lỗi người.

Đức Phật dạy khi lâm chung, thân thể chúng ta rã rời, không còn nghe thấy gì nữa. Ý thức hoang mang hiện ra nhiều cảnh, theo sự ghi nhớ trong một đời, đặc biệt là hiện ra những việc thiện ác đã từng làm. Nếu người lúc sanh tiền tạo ác nghiệp thì khi lâm chung thấy có nhiều dãy núi lửa lớn, thành sắt lửa cháy đỏ rực, biển lửa, núi lửa đỏ rực vây quanh không có đường ra. Có nhiều rắn lửa, chó lửa, ngục tốt đầu trâu, la sát đầu ngựa cầm thương xốc lùa tội nhân vào chỗ khổ.

Trong Nhị Khoá Hiệp Giải nói có những địa ngục như sau:

A. Địa ngục vô gián: vô là không, gián là ngừng; tức thống khổ không ngừng, triền miên lũy kiếp
B. Tám địa ngục nóng: Sức lửa mạnh, hòn đá vuông ba mét khối bỏ vào lửa tức thời tiêu tan, hết hạn trong địa ngục này lại rơi vào các địa ngục phụ khác. Tám địa ngục là:

1. Đẳng hoạt: Chúng sanh móng tay sắt cào nhau rớt thịt.
2. Hắc thằng: Dây sắt trói, búa sắt chặt.
3. Chúng hợp: Hai núi ép cho thịt nát, xương tan.
4. Khiếu hoàn: Nấu trong vạc dầu, kêu la inh ỏi.
5. Đại hô: Nấu trong chảo sắt, liệng lên tấm sắt quay rán
6. Viêm nhiệt: lò sắt rực đỏ
7. Chúng nhiệt: Ngục tốt (quỷ địa ngục) cầm cây thiết xoa đâm tội nhân, rồi để dựng đứng trong hầm lửa.
8. Xe lửa: Lột da rồi để dưới xe lửa cho bánh xe nghiền nát

16 địa ngục phụ là:

1. Rìu bú 2. Chó sói
3. Cây kiếm  4. Rừng đao
5. Cát đen (cháy da thấu xương) 6. Phân tiểu (sôi nóng đổ vào miệng)
7. Đinh sắt (đóng khắp thân) 8. Nước đồng sôi (rót vào miệng)
9. Hòn sắt nóng (bắt ăn)  10. Vạc đồng (nấu sôi)
11. Nhiều vạc đồng 12. Cối đá (xay thân)
13. Mủ máu (nấu sôi mình ở trong) 14. Đấu sắt nóng (phải cầm đong lửa)
15. Sông tro nóng (phải gieo thân vào) 16. Hòn sắt nóng (tay nắm, sức lửa cháy khắp thân)

C. Tám địa ngục lạnh: Cũng như địa ngục nóng, tuổi thọ như có 20 hộc mè, cứ mỗi 100 năm lấy ra 1 hột. Lấy hết hạt mè là hết tuổi thọ. Tám địa ngục là
1. Án phù đà (tội nhân trong đó rét ngặt, thịt nát nhừ)
2. Vi lại phù đà (gió lạnh thổi tới, thân thành bọt nước)
3. A tra tra (lửa khua ra tiếng a tra tra)
4. A ba ba (môi đập thành tiếng)
5. Ẩu hầu hầu (từ cuống họng phát ra)
6. Uất ba la (thịt như ướp đá thành màu tái xanh)
7. Ba đầu ma (thịt đỏ tươi)
8. Phân đà hợi (lạnh chẻ xương trắng).

Ngoài ra trong nhân gian có các địa ngục rải rác ở các núi, trong lòng nước, ngoài cánh đồng.
Trong kinh Lương Hoàn Sám nói nơi địa ngục có võng sắt, tối tăm, hang sắt, xe đao, đá nhọn, máy sắt, hầm than, rừng gai, rừng cháy, nước sôi, đá mài, than nóng, trâu cày, hổ lang và phun lửa.

Còn trong kinh Địa Tạng nói có địa ngục thông thương (phóng đâm), sông lửa, dao bay, tên lửa, đao binh, núi đao, bùn lầy, trâu sắt, chó sắt, lửa sắt, ôm cột đồng nung đỏ, kéo lưỡi cho trâu cày, đốt tay, đốt chân, ăn mắt, tranh cãi, nhiều sâu, voi lửa, chó lửa, ngựa lửa, trâu lửa, núi lửa, đá lửa, cưa răng, giường lửa, lột da, uống máu, treo ngược, nhà lửa, nhà sắt, thành lửa, rút lưỡi, chém chặt, mổ xẻ, ngu si, khóc lóc, mỏ sắt nhọn, giếng lửa, sỏi bay và gió nóng.

Khế kinh dạy: “Bị thiêu đốt trong địa ngục chưa gọi là khổ. Chỉ ngu dốt không biết đường đi mới gọi là khổ. Vì ngu si là gốc nguồn tội.”

Nếu những ai phá luật phạm giới, hủy báng Phật pháp, làm tổn thương đến tuệ mạng của chúng sanh, nên phải chịu quả báo địa ngục trong nhiều kiếp. Chúng sanh gây những nghiệp dữ khác, khi đã đền tội hết rồi thì tái sanh làm quỷ để chịu các quả báo còn lại của các nghiệp dữ đã gây ra. Đến khi dư báo trong loài quỷ đã chịu đủ, ác quả của các nghiệp dữ cũng đã hết rồi thì mới lên làm súc sanh, trả lại các nợ cũ.

Nói tóm lại, những nhân quả trong ba đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đều do tự mình gây nhân và chuốc lấy quả. Những nhân quả đó không phải từ trên trời sa xuống và cũng không phải do người khác đưa đến, mà chính do những vọng tưởng giả dối chấp có cái ta thật, có sự vật thật, nên mới hoá thành có thật. Tất cả đều do tự tâm huân tập tự tâm, bằng những tư tưởng xấu, làm cho tự tâm hiện ra những quả báo xấu. Nếu ngộ được bản lai tâm tánh, thì tất cả sự vật đều như huyễn như hoá, vốn không có ai làm và làm gì, vốn không có ai chịu và chịu cái gì.

Lại trong kinh Lăng Nghiêm, mục ‘Nghiệp quả tiếp tục’[23]  Đức Phật dạy trong lúc lấy thân súc sanh trả các nợ cũ, nếu trả quá phần mắc nợ thì trở lại làm người, đòi lại những cái đã trả dư. Như thế trong đường luân hồi, chúng sanh vay trả, trả vay lẫn nhau, nhất là khi mắc nợ thân mạng dù đã trải qua  vô lượng vô số kiếp vẫn phải trả.

Chúng sanh gây ác nghiệp, khi chịu hết quả báo huân tập và đối đãi rồi, trở lại làm người, thì tùy theo tập quán trước kia mà thành những người có tư tưởng khác nhau, có những người thông minh, có những người ngu dại. Thế mới biết được sinh làm người, không phải là dễ. Nếu không học hiểu chánh pháp, biết nhân biết quả, bỏ dữ làm lành, lỡ ra phải sa vào đường dữ thì rất khó trở lại làm người được.

Trong câu kết của bức tranh sáu (hoặc bảy) cảnh giới khổ này là:

“Anh đang sống trong vòng quay tròn của bánh xe luân hồi. Đầu tóc anh đang bị lửa cháy. Nếu anh vội vàng dập tắt lửa trên đầu thế nào thì việc ra khỏi sanh tử cũng phải vội vàng như thế.

Ái dục là gốc khổ đau. Hãy dập tắt ngay lửa ái dục.”

Trong kinh Lăng Nghiêm[24]  Đức Phật khai thị chỗ hư vọng của bảy loài để khuyến khích tu hành đúng pháp:

“Này A-nan, xét rõ bảy loài: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, thần tiên, trời và A-tu-la như thế đều là những tướng hữu vi tối tăm, giả dối tưởng tượng thọ sanh, giả dối tưởng tượng theo nghiệp, đối với tâm tánh diệu viên minh, bản lai không năng tác, sở tác thì đều như hoa đốm giữa hư không, vốn không dính dáng, chỉ cái hư vọng, chứ không có cỗi gốc manh mối gì.”

A-nan, những chúng sanh đó, không nhận được tâm tánh bản lai, chịu luân hồi như thế trong vô lượng kiếp, mà không chứng được chân tánh thanh tịnh, đó đều do chúng thuận theo những sát, đạo, dâm hoặc ngược lại ba cái đó thì lại sanh ra không sát, không đạo, không dâm.

Có thì gọi là quỷ, địa ngục, bàng sanh; Không có thì gọi là trời, thần tiên. Có và không thay nhau và phát khởi ra tánh luân hồi. Chúng sanh theo vọng tưởng phân biệt thì không ra ngoài cái có và không. Dục giới có sắc có dục. Sắc giới có sắc không dục. Vô sắc giới không sắc không dục đều không thoát ra khỏi cái có và cái không của phát khởi tánh luân hồi.

Đến đây chúng ta thấy mấu chốt của luân hồi rồi.

Trong sáu đạo luân hồi, bốn cõi dưới khổ não bức bách không thể nào tu hành. Cõi trời thường bị cảnh vui gây mê. Duy loài người đủ giác tỉnh và thông minh để làm nguyên liệu giác ngộ. Đời người là cơ hội duy nhất để tự chuyển hoá. Nếu ta để lỡ thì lại một thời gian vô cùng tận nữa mới gặp như ví dụ rùa mù tìm bọng cây. Được thân người thật khó. Trong số làm người mấy ai may mắn gặp được Phật pháp? Và người biết đạo, biết tu lại càng hiếm hoi khó thấy.

Sỡ dĩ có bảy cõi khác nhau đều do phận trong và phận ngoài nặng hay nhẹ. Hay nói cách khác là do trong tâm ta tình hay tưởng nhiều hay ít.[25]

“A-nan, tất cả thế gian sống chết nối nhau, sống thuận theo tập quán, chết thì đổi sang dòng khác. Khi gần mệnh chung, chưa hết hơi nóng, thiện ác một đời đồng hiện ra, cái nghịch của chết, cái thuận của sống, hai tập khí giao xen lẫn nhau.

– Thuần là tưởng thì bay lên, chắc chắn sinh lên cõi trời, nếu trong tâm bay lên gồm có phúc đức, trí tuệ cùng với tịnh nguyện thì tự nhiên tâm được khai ngộ, thấy tất cả tịnh độ thập phương chư Phật, theo nguyện mà vãng sanh.

– Tình ít tưởng nhiều, cất lên không xa thì làm Phi tiên, đại lực quỷ vương, Phi hành da xoa, địa hành la sát đi khắp bốn cõi trời không bị ngăn ngại. Nếu có nguyện tốt, tâm tốt hộ trì Phật pháp hoặc hộ trì cấm giới, theo người trì giới, hoặc hộ trì thần chú, theo người trì chú, hoặc hộ trì thiền định, giữ yên pháp nhẫn, thì những vị đó chính mình được ở dưới pháp tòa Như Lai.

– Tình tưởng ngang nhau, không bay lên, không đọa xuống thì sinh nơi nhân gian, tưởng sáng suốt nên thông minh, tình u ám nên ngu độn.

-Tình nhiều tưởng ít thì đi vào các loại bàng sanh, nặng làm giống có lông, nhẹ làm giống có cánh bay lên.

-Bảy phần tình ba phần tưởng chìm xuống dưới thủy luân, sinh nơi mê hỏa luân chịu khí phần của lửa hồng, thân làm ngạ quỷ, thường bị đốt cháy, vì nước có thể hại mình nên trải trăm ngàn kiếp, không ăn không uống.

-Chín phần tình, một phần tưởng, xuống thấu qua hỏa luân và giữa giao giới của phong luân và hỏa luân, nhẹ thì sinh vào hữu gián địa ngục, nặng thì sinh vào vô gián địa ngục.

-Thuần là tình thì chìm sâu vào ngục A-tỳ. Nếu trong tâm chìm sâu đó lại có hủy báng đại thừa, phá cấm giới của Phật, lừa dối nói pháp để tham cầu tín thí, lạm nhận cung kính hoặc phạm ngũ nghịch, thập trọng thì lại còn sinh vào địa ngục A-tỳ thập phương.

Theo ác nghiệp gây ra, tự chuốc lấy quả báo nhưng trong đồng phận chung vẫn có chỗ sẵn.

Chúng sanh mê lầm chấp ngã, lấy phân biệt làm tâm, lấy xác thịt làm thân, nên phải theo với cái thân, cái tâm này mà xoay vần trong đường sanh tử.

Chúng sanh trong mỗi nghiệp, lúc đương sống thì hàng ngày hành động theo nghiệp thức hiện tiền của mình, nhưng đến khi chết thì lại phải tùy theo sự huân tập mà đổi sang nghiệp khác.

Việc ác thuộc về phận trong. Việc thiện thuộc về phận ngoài. Hai thứ này đua nhau lôi kéo tâm thức đi lên hoặc đi xuống. Như thế tất cả lục đạo đều do chúng sanh tự mình gây ra nghiệp nhân, rồi tự mình chịu lấy quả báo. Quả báo giống nhau thì thọ cảnh giới giống nhau. Quả báo khác nhau thì thọ cảnh giới khác nhau.

Tâm không giác ngộ thì chỉ thấy thế giới, còn tâm giác ngộ thì thay vì thấy thế giới ta thấy được pháp giới. Chúng ta biết rằng địa ngục mà trong đó chúng ta đang sống là một sáng tạo của tâm thức cá nhân và cộng đồng và chúng ta có thể thoát ra được. Nếu tâm tạo ra địa ngục thì tâm cũng có thể làm ngưng địa ngục. Nếu chúng ta làm cho tâm tịnh độ phát hiện thì tự nhiên tịnh độ sẽ phát hiện. Chán ghét hoả ngục, mong ước tịnh độ thì tự nhiên tâm sẽ hướng về tịnh độ. Quay lưng lại địa ngục và xoay mặt về tịnh độ thì thế nào tịnh độ cũng hiện tiền. Đây là tông chỉ của kinh Hoa Nghiêm.

13/07/2009 Posted by | c) PHẬT HỌC TỔNG QUÁT, d) PHẬT HỌC VẤN ĐÁP | Bình luận về bài viết này

VÒNG LUÂN HỒI – phần III: VÒNG NGHIỆP

Photobucket

http://phattuvietnam.net

Thích Nữ  Giới Hương

Vòng nghiệp chia hai: Nửa bên nền đen có những người trần truồng ngã nghiêng té nhào đầu hướng xuống. Đây là những người đáng thương đi vào tăm tối. Sát sanh, trộm cắp, tà dâm… là nghiệp đen, là hành động của thú tánh, cảnh dưới, cảnh tam đồ nên đưa về cảnh thú.

Nửa bên nền trắng có bốn chúng đệ tử tay cầm đèn sáng đi lên. Tỳ kheo, tỳ kheo ni đang cầm đuốc soi đường cho các ưu bà tắc và ưu bà di. Đây là hình ảnh của những người đi vào ánh sáng, thế nên trên nền trắng.

Chúng ta có những địa ngục trong nhà với những cảnh: sáng chặt đầu cá, moi ruột, róc vẩy; trưa bát canh cua, luộc ốc nấu sống trên bếp, tối cắt cổ gà, lấy huyết. Tiệc tùng lớn thì giết trâu, mổ lợn… Chúng ta tạo địa ngục từ ngày này đến ngày khác, năm này đến năm khác, không ngày nào tha chúng sanh. Trẻ làm quỷ sứ để hầu chồng, hầu con; lớn lên hầu cháu hầu chít, lo làm vừa lòng những bữa cỗ trong gia đình.

Con gà, có cá, con trâu, con heo… chúng cũng thở bằng mũi, ăn bằng miệng, cũng hai lá phổi, cũng nhìn bằng mắt, nghe bằng tai, cũng da bọc thịt, thịt bọc xương, cũng một lá gan như mình mà sao mình lại cứa cổ nó, cướp da, cướp thịt nó để nuôi miệng mình. Thết đãi khách chúng ta cứ cho là có gà vịt mới sang, mới quý. Vì thế, làm ác mà không biết là ác, không hổ thẹn. Một đời sát hại như vậy. Rồi đến lúc hấp hối, chúng ta mời chư tăng ni đến tụng kinh gõ mõ cầu siêu một, hai giờ để đưa chúng ta về cực lạc thì chúng ta nghĩ có dễ không?

Còn trong lúc giao thiệp buôn bán, mình xoay sở dối trá cầu lợi quá đáng, thành mình vẫn mặc áo đẹp, vẫn nhung, vẫn gấm mà vẫn phạm giới ăn cắp. Khổ nỗi lại vương vương tự đắc cho là khôn, là tài. Cho nên chúng ta vẫn cứ ở trong vòng đen, vẫn sai quấy, vẫn trần truồng (không biết hổ thẹn) mà không tự biết và nằm nghiêng ngửa (ác nghiệp là ngã té).

Vì thế, chỉ khi nào có chư tăng ni dẫn đường, quý vị mới đi trên đường trắng, tạo những nghiệp lành. Đức Phật không bắt chúng ta làm những điều khó. Chỉ cần đừng làm ác là lành rồi. Không sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối… đó là lành rồi. Đi trên con đường trắng, chúng ta đi về cõi trời, người. Nếu cứ sát sanh, trộm cắp, dối láo, hai lưỡi, nói lời độc ác và những thói xấu là ở trong vòng đen, trần truồng không biết. Sai quấy mà không tự biết.

Đức Phật dạy từ cõi thú trở về cõi người khó hơn con rùa mù tìm được bọng cây nổi.

Có một con rùa mù ở đáy biển. Một trăm năm mới có cơ duyên ngóc đầu lên mặt nước một lần. Rùa ao ước được chui đầu vào một bọng cây đang bị sóng vỗ đẩy trôi khắp nẻo đại dương bao la.

Rùa mù: mù là vì còn ngã, pháp chấp. Trăm năm: thời gian dài đọa lạc trong ác đạo. Đây nói tượng trưng trăm năm, chứ thật ra mình trăm ngàn vạn kiếp rồi, từ vô thủy không đếm nổi. Ngóc đầu: thoát thân ác thú. Bọng cây: tử cung của người nữ (chứ không phải là con thú cái). Nơi bào thai thành tựu thân người. Sóng vỗ đẩy trôi: Trùng trùng nhân duyên biến đổi, kiếp này sang kiếp khác.

Trong Quy sơn cảnh sách cảnh tỉnh chúng ta về sự vô thường, hãy quay về đường lành giác tỉnh qua câu chuyện ‘người bị voi dữ đuổi’.

Chuyện rằng có người chạy thục mạng vì bị voi điên rượt. Gặp giếng nước cạn liền nắm vội rễ cây đa tuột xuống. Nào ngờ dưới đáy giếng có bốn con rồng đói khát, mắt đỏ rực đang ngửa lên phun lửa. Bốn bên thành giếng lại có bốn con rắn độc thè lưỡi nhe nang phà hơi độc. Sợ quá! chỉ còn trông cậy ở hai sợi dây đa tòn teng để tạm sống. Khốn nổi! sợi giây yếu quá! khô quá! sức nặng của người đó trì xuống. Lại oái ăm thay! có hai con chuột, một trắng và một đen bên thành giếng cứ thay nhau gặm và nghiền rễ đa, khiến sợi dây mòn dần, cứa dần… Giữa lúc mạng sống tòn teng mỏng manh sắp chết đó, trong lúc bối rối, người ấy ngửa mặt lên trời, bỗng đâu có năm con ong bay qua giếng và để rơi xuống năm giọt mật. Mãi liếm mật ngọt, vị này ngây ngất và khoái chí hưởng thụ, quên hết những sự nguy hiểm, nguy nan đang rình rập lấy mình.

Trong chuyện, voi đuổi là tượng trưng cho sự vô thường bức bách, con người đi đến cái chết. Rễ đa tòn teng trong giếng: Mạng sống mong manh của kiếp người tức kiếp trược. Ba con rồng: tham sân si nung đốt kích thích chúng ta tạo nghiệp. Chỉ chờ mạng sống đứt là rơi vào ba cõi. Bốn rắn: ổ bịnh hoạn. Chuột đen và trắng: Ngày và đêm trôi qua, sanh mạng mòn dần, cái chết sập đến. Năm giọt mật: mãi say mê liếm mật ngọt lịm của năm dục, năm trần, quên cả nguy nan, lo âu nguy hiểm. Thế nên, vô thường vội vàng, mệnh trong hơi thở, nỗ lực tiến tu, chớ nhàn nhã qua ngày, qua tháng như cá cạn nước còn mong mỏi thú vui gì.

Có một người tù biết ba ngày nữa sẽ đưa ra ải để tử hình. Vị thầy vào thăm và hỏi con sẽ làm gì trong những ngày còn lại? Đáp: Con chỉ có một việc là niệm Phật và cầu nguyện cho được vãng sanh về cõi Cực Lạc.

Chúng ta ai cũng phải chết. Đó là cái chắc chắn, nhưng vì không biết được ngày chết nên chúng ta cứ nhởn nhơ như cá cạn nước mà không biết. Người tử hình kia may mắn biết được ngày giờ nên có sự chuẩn bị tư lương.

Niệm niệm lìa trần, tâm tâm xuất thế. Chúng ta từ vô thủy kiếp mê đắm sắc thân bốn đại, luân chuyển chịu báo. Mê càng chứa mê từ khổ vào khổ. Gió cảnh thuận nghịch dậy sóng yêu ghét, khiến chúng ta càng chìm sâu trong vô minh phiền não. Các tổ cảnh sách để chúng ta tỉnh mộng thế gian. Nương pháp thuyền từ qua bến sanh tử.

Kinh Pháp Cú dạy làm ác (đen) và thiện (trắng):

“Nay buồn, đời sau buồn,
Kẻ ác hai đời buồn.
Buồn nản tự diệt mình,
Thấy việc ác mình làm”. [11]

“Nay vui, đời sau vui,
Người thiện hai đời vui,
An vui quá an vui,
Thấy việc thiện mình làm.” [12]

Kinh Lăng Nghiêm [13] khai thị về phận trong và phận ngoài của chúng sanh như sau:

Đức Phật dạy: A-nan, tất cả chúng sanh thật vốn chân tánh thanh tịnh, nhân những vọng kiến mà có tập khí hư vọng sinh ra, vì thế chia ra có phận trong và phận ngoài.

1) A-nan nhân lòng ái nhiễm phát khởi ra vọng tình, tình chứa mãi không thôi, có thể sinh ra ái thủy. Vậy nên chúng sanh, tâm nhớ thức ăn ngon thì trong miệng nước chảy ra, tâm nhớ người hoặc giận, hoặc thương thì trong con mắt lệ tràn, tâm tham cầu của báu thì trong tâm phát ra ái diên, cả mình đều trơn láng, tâm nghĩ việc ái ân thì hai căn nam nữ tự nhiên dịch khí chảy ra.

A-nan các cái ái đó tuy khác nhau nhưng kết quả chảy nước là đồng.

Thẩm ướt không lên được, tự nhiên theo đó mà sa đọa, ấy gọi là phận trong, tức những ham muốn dục vọng thấp kém bên trong của chúng ta. Những lòng ái nhiễm, tham dục đều là những vọng tình thấm vào trong tâm thức, làm cho càng thêm nặng nề, do đó phải bị sa đọa, đó là phận trong.

2) Nhân các lòng phát ngưỡng, phát minh ra những lý tưởng, tưởng chứa mãi không thôi, có thể sinh ra những thắng khí, vậy nên chúng sanh tâm giữ cấm giới cả mình nhẹ nhàng trong sạch; chúng sanh tâm trì chú ấn, con mắt ngó hùng dũng nghiêm nghị; tâm muốn sinh lên trời, chiêm bao thấy bay lên; để tâm nơi cõi Phật, thánh cảnh thầm hiện ra; thờ vị thiện tri thức, tự khinh rẽ thân mệnh mình.

A-nan, các tưởng đó tuy khác nhưng nhẹ nhàng cất lên thì đồng nhau, cất bay không chìm xuống, tự nhiên vượt lên, đó là phận ngoài, tức nhàm chán kiếp khổ của chúng sanh và mơ ước được giải thoát, chúng sanh phát ra những tư tưởng thanh cao nhằm thoát ly các sự mê lầm, ô nhiễm. Những tư tưởng ấy, thuận theo lý trí, chống lại vọng tình, làm cho tâm thức nhẹ nhàng, vượt lên các cõi trên, đó là phận ngoài.

Việc ác thuộc về phận trong. Việc thiện thuộc về phận ngoài.  Hai thứ này đua nhau lôi kéo tâm thức đi lên hoặc đi xuống. Như thế tất cả lục đạo đều do chúng sanh tự mình gây ra nghiệp nhân, rồi tự mình chịu lấy quả báo.

Quả báo giống nhau thì thọ cảnh giới giống nhau.
Quả báo khác nhau thì thọ cảnh giới khác nhau.
Do phận trong và ngoài tạo nghiệp mà đưa đến vòng kế tiếp là vòng khổ của sáu đạo.

13/07/2009 Posted by | c) PHẬT HỌC TỔNG QUÁT, d) PHẬT HỌC VẤN ĐÁP | Bình luận về bài viết này