THƯ VIỆN PHÁP BẢO NAMO84000

http://namo84000.com

48 PHÁP NIỆM PHẬT

KỆ KHAI CHUỖI (^)
***
Tay lần trăm tám hột châu,
Dứt trừ tội lỗi, buồn rầu tiêu tan,
Xa lìa khổ ác ba đàng,
Thế gian phiền lụy hóa toàn liên hoa.
Ái hà ngàn thước sóng xao,
Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi!
Muốn cho khỏi kiếp luân hồi,
Phải mau gấp niệm Nam mô Di Ðà.
NAM MÔ A DI ÐÀ PHẬT
THAY LỜI TỰA (^)
***

Tôi đã biết niệm Phật từ khi còn bé, vì gia đình cha mẹ đã tu pháp môn Tịnh độ trước khi sinh ra tôi. Nhưng từ trước đến giờ, tôi chưa được gặp tập sách nào chỉ đến phương pháp niệm Phật đầy đủ như tập này. Ðể cho người tu niệm đỡ thắc mắc khi không biết mình phải thật hành cách nào cho có kết quả và phải xoay sở ra sao khi gặp phải chướng ngại trên bước đường tu niệm, nên tôi xin kính dịch để giúp phần phương tiện cho những bạn tu Tịnh độ, tùy hoàn cảnh, căn cơ mà thực hành hầu dễ thu hoạch kết quả mong muốn.
Về lợi ích và giới thiệu Pháp môn Tịnh độ, ở đây tôi xin không đề cập, vì đã có rất nhiều bản nói đến rồi. Vậy tôi cũng xin như thuật giả, là đi ngay vào những phương pháp thực hành mà thôi.
Ðể làm dễ và rộng một phần nào sự tìm hiểu của các bạn đồng tu, sau mỗi pháp, nếu có chỗ nào chưa rõ ràng lắm, hoặc quá gọn tắt, tôi xin có lời giải thích (theo sở hiểu của tôi) và một vài lời bàn giải để làm sáng tỏ cho phương pháp mà thuật giả đã trình bày.
Nhưng dù thế nào cũng sẽ không tránh khỏi ít nhiều thiếu xót, kính mong các bực cao minh và các Liên hữu bốn phương vui lòng bổ chính cho, thật tôi muôn phần cảm tạ.
Trong 48 pháp này, tùy phương tiện, hoàn cảnh, trình độ, có thể tùy nghi, không nhứt thiết bắt buộc phải thực hành tất cả. Pháp này khó kết quả, hoặc không hợp, ta hãy đổi sang pháp khác, điều cốt yếu, làm sao cho được “Nhất tâm bất loạn” tức “Niệm Phật tam muội” là mục đích.
Kết quả tốt đẹp sẽ đến với chúng ta, khi chúng ta biết cách thực hành cho đúng mức.
Kính cầu nguyện ánh bi quang của đức Phật A Di Ðà soi sáng tự tánh Di Ðà của chúng ta và khi mãn duyên kiếp khổ lụy Ta Bà, chúng ta sẽ được thừa nguyện lực của Ngài, đồng được vãng sanh về cảnh giới an lạc.

NAM MÔ TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
Chùa Thiền Tôn, mùa Hạ năm Quí Mão (1963)
Liên Tử TỊNH LẠC
Vài dòng của người đánh máy: (^)

Ðể cho bạn đọc hiểu rõ thêm về tác giả của quyển sách này, tôi xin mạo muội kèm thêm tiểu sử của tác giả được trích trong quyển “Hương Quê Cực Lạc” của Hòa Thượng Thích Thiền Tâm. Xin các bạn hoan hỉ.

DIỆU KHÔNG ÐẠI SƯ

Ðại sư họ Trịnh, người ở Giang Ðô. Lúc thiếu thời ngài học Nho, thường đồng với Quán Như pháp sư, Dương Như Sơn, Hứu Vân Hư, thương nghị khắc Ðại tạng kinh. Kế đó ngài xuất gia, tự hiệu là Khắc Kinh Tăng. Trong mười lăm năm, Ðại sư đã khắc hơn ba ngàn quyển. Sau khi ngài tịch ba năm, bộ kinh Ðại Bát Nhã mới hoàn thành. Ðại sư giữ giới tinh nghiêm, quá giờ Ngọ không ăn, thưở sanh bình trứ thuật rất nhiều, sau hợp lại thành pho: “Lâu các tòng thơ”. Trong ấy phần nhiều là những sách xiển dương tông Tịnh độ. Ngài cảm hóa người rất đông, đa số là kẻ trọng vọng như ông Tưởng Nguyên Lượng v.v… Nhà Thanh năm Quang Chữ thứ 6, Ðại sư niệm Phật mà tịch, hưởng 55 tuổi.

—–o0o—–

1.- NIỆM PHẬT NÊN GIỮ Ý CĂN:(^)
Ðã đem tâm này niệm Phật, phàm tất cả việc tạp thiện, tạp ác <!–[if !supportFootnotes]–> [1]<!–[endif]–> đều không nên nhớ, tức hàng ngày chỉ nên làm mọi việc với ý niệm vạn bất đắc dĩ, xong rồi thì xả, đừng để day dích, sẽ chướng ngại tâm niệm của chúng ta. Vả lại, sở dĩ tâm niệm của chúng ta cứ còn dây dưa mãi với những tạp thiện, tạp ác là vì ý địa chưa thuần; nếu ta niệm Phật đến lúc tâm địa sáng tỏ, thời ý địa tự nhiên chuyên ròng nơi quán sát, không duyên tạp sự.
Phải biết, niệm Phật có thể chuyển Phàm thành Thánh, là phương tiện giải thoát thứ nhứt của thế gian và xuất thế gian vậy.

Lời phụ giải: Sự sống hàng ngày đã chiếm quá nhiều thì giờ của chúng ta, bởi vậy nên những lớp trần ai càng bám riết theo cuộc sống, làm cho chúng ta không rảnh được sự tính toán, mà hễ tính nhiều tức loạn trí, lo âu ắt tổn thần. Thế nên khi xác nhận cuộc sống này chỉ là tạm bợ, trả vay, quay về với cuộc sống tâm linh vĩnh viễn, chơn thật, thì còn gì nữa mà không buông bỏ tất cả giả cảnh, để sống với cảnh giới chơn thường. Phàm, Thánh, mê, ngộ đều ở nơi ý địa của đương nhơn mà thôi!

2. NIỆM PHẬT NÊN GÌN KHẨU NGHIỆP(^)
Ðã dùng miệng này niệm Phật, phàm tất cả những việc SÁT, ÐẠO, DÂM, VỌNG <!–[if !supportFootnotes]–> [2]<!–[endif]–> không nên buông lời nói càng, nói quấy. Một khi nói lỡ, nên tự nghĩ rằng: người niệm Phật không nên nói như thế, rồi cố gắng niệm lớn ít tiếng danh hiệu Phật để trấn áp tâm mình và gột tẩy ngay những lời bất thiện ấy.

Lời phụ giải: Phàm đã mang danh từ Phật tử và đã biết niệm Phật, tất cả phải giữ gìn khẩu nghiệp. Nếu thoảng một lời vô nghĩa thốt ra, tự suy nghĩ ăn năn chẳng ít, huống không có lợi ích gì cho ai, mà còn gây khổ hận cho kẻ khác, thì dầu một tiếng cũng không nên mở miệng. Phật là tượng trưng cho sự Thanh tịnh, mà ta lại niệm Phật bằng cái miệng bất tịnh thì phỏng được lợi ích gì? Trong kinh Phạm Võng có chép: “Nhựt nhựt khởi tam nghiệp tội, khẩu tội vô lượng.” Miệng là cửa mở muôn điều ác hay thành vạn sự lành, vậy ta cần phải suy kỹ trong lúc mở lời. Huống chi việc niệm Phật, chúng ta lại càng cần phải giữ miệng cho thật sạch, nghĩa là một lời quấy, một tiếng xấu, nhứt định phải tiêu diệt trong khi chúng còn trong trứng nước, không để chúng thành hình, đừng nói phát ra cửa miệng. Tu thân, tu tâm mà không tu miệng là một khuyết điểm lớn!

3.- NIỆM PHẬT PHẢI CHỈNH THÂN NGHIỆP:(^)
Ðã đem thân này niệm Phật, thời trong mọi lúc cũng như trong mọi cử chỉ: đi, đứng, ngồi, nằm, thân cần phải đoan chánh <!–[if !supportFootnotes]–> [3]<!–[endif]–> thì tâm mới được thanh tịnh. Người niệm Phật nên tự nghiệm điều này, thật không bao giờ dối.

Lời phụ giải: Thân thể có ảnh hưởng mãnh liện đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật, tất phải dọn mình cho thật đoan chánh, trước khi niệm. Tâm ta tịnh được là do thân nghiệp không động, không nhiễm. Vậy nên, muốn công phu niệm Phật có kiến hiệu, điều kiện trước tiên là phải giữ gìn thân nghiệp cho đoan chánh.

4.- NIỆM PHẬT LẦN CHUỔI:(^)
Niệm Phật một tiếng, tay lần một hột. Chỉ nên niệm bốn chữ, đừng lộn sáu chữ, vì bốn chữ rất dễ thành khối <!–[if !supportFootnotes]–>[1]<!–[endif]–>. Trong bốn chữ A Di Ðà Phật, hoặc lần chuổi tại chữ A, hoặc lần tại chữ Ðà, hoạch định cho có phép tắc, không được lầm lẫn, đây là pháp mượn chuổi để nhiếp tâm vậy.
Lời phụ giải: Giữ tâm niệm thành khối, danh hiệu Phật, mỗi câu xâu xuốt với nhau không xen hở một tạp niệm nào, ví như xâu chuổi, hột này dính liền với hột khác, hột hột dính liền với nhau, đó là ý nghĩa của sự niệm chuổi. Hơn thế nữa, đó là phương tiện nhắc nhở kẻ sơ cơ, chưa thuần với chánh niệm, nhớ lại câu niệm Phật. Kẻ lười nhờ đó mà siêng, kẻ trễ nhờ đó mà gắng. Khi chánh niệm đã tinh thuần, Phật niệm không lìa tự tâm, bây giờ có chuổi hay không cũng chẳng thành vấn đề. Thế nên kẻ sơ cơ cần nhờ nó để làm phương tiện. Chẳng lẽ sắm chuổi để mốc à?
5.- NIỆM LỚN TIẾNG (^)
Nếu lúc thần trí hôn trầm <!–[if !supportFootnotes]–>[2]<!–[endif]–>, hay khi vọng tưởng đua khởi, hãy nên trấn tỉnh tinh thần, to tiếng niệm Phật, niệm cho được vài ba trăm tiếng tự nhiên đổi thành cảnh giới an tịnh. Bởi vì nhĩ căn thính lắm, nên ngoại duyên dễ vào, tiếng làm cho tâm động, tạp tướng nổi dậy, nên phải to tướng niệm Phật để giữ gìn nhĩ căn, hầu mở tỏ tâm linh. Bấy giờ tâm chỉ nghe tiếng của chính mình, mỗi tiếng liên tục, đầy đủ, tất cả những gì phải quấy, nên, hư tự nhiên phóng xả.

Lời phụ giải: Lúc ta mệt nhọc, trong người hay uể oải, hay sanh chứng ngủ gật, hay cả thân thể lẫn tâm linh như có cái gì đè nặng, bấy giờ nếu ta dùng cách tịnh niệm, thì chỉ càng giúp cho sự mệt nhọc, ngủ gật kia đắc lực. Thế nên ta phải to tiếng niệm Phật, quán sát tiếng niệm Phật kia từ tự tâm lưu xuất, rồi theo lỗ tai vào lại tự tâm, vòng quanh mãi như thế, đến khi nào, tâm ta sáng suốt, ma ngủ gật kia biến mất, chỉ thuần một câu niệm Phật rõ rành mới thôi.

6.- NIỆM NHỎ (^)
Nếu lúc tinh thần tán thất, hoặc khi nhiều việc nhọc nhằn hay phải nhiều điều bức bách, thì không cần phải niệm to, chỉ nên thấu liễm thần minh <!–[if !supportFootnotes]–>[3]<!–[endif]–> nhỏ tiếng niệm kỹ. Ðến khi hơi thở điều hòa, tinh thần hứng khởi, an định tâm hồn mới nên niệm to tiếng.

Lời phụ giải: Phương pháp niệm nhỏ là để đối trị bệnh tán loạn. Nhiều khi vì quá bề bộn công việc, mà thân tâm ta phải quá nhọc nhằn, hay có những việc làm ta phải cực lòng, bực trí. Bấy giờ nên dùng pháp niệm nhỏ, vì nếu niệm to sẽ giúp phương tiện cho ma tán loạn thêm sức mạnh. Niệm nhỏ từng tiếng từng câu thật kỹ, thật rõ, lần lần tâm thần ta sẽ được an tịnh, bấy giờ nên niệm lớn.

7.- NIỆM THẦM (^)
Nếu tâm khí <!–[if !supportFootnotes]–>[4]<!–[endif]–> không được điều hòa, hoặc người hay chỗ có ngại, niệm to, niệm nhỏ đều thấy không tiện, thì chỉ nên động môi, dùng pháp niệm thầm (Kim Cang trì), không bắt buộc nhiều ít, nhưng cấn nhứt: mỗi chữ, mỗi câu phải từ tự tâm lưu xuất.

Lời phụ giải: Pháp này khác với pháp niệm nhỏ trước, vì chỉ được động môi mà không cho phát ra tiếng; nói cho dễ hiểu là chỉ nhép miệng mà thôi. Vả như có người nằm gần ta, hay chỗ ta ở khít gần với kẻ khác, niệm thành tiếng dù lớn dù nhỏ cũng có thể đụng đến họ, vậy nên chỉ nhép miệng niệm thầm, không cần hạn số, bao nhiêu cũng được, miễn sao câu niệm Phật bắt nguồn từ tự tâm, kích động đầu môi, bật thành một thứ âm thanh huyền diệu, không thành tiếng mà vang khắp đại thiên, nhưng vẫn không ngoài đương niệm.

8.- MẶC NIỆM(^)
Lại hoặc niệm to, niệm nhỏ đều không hợp, tay lần chuổi lại hiềm phiền phức, niệm thầm vẫn thấy còn có dấu vết, thì xưa có phương tiện chí xảo là không cần động mồm, không phát ra tiếng, chỉ bắt tâm niệm duyên chuyên một cảnh, âm thầm dùng lưỡi gõ vào răng trước (răng cửa) hay tâm tưởng cũng được, tùy ý, chỉ phải làm sao cho tiếng thật rõ ràng, nhưng tiếng không phải phát ra từ cửa miệng mà phải phát ra từ tự tánh. Tánh nghe lại phải dung thông nội tâm, nội tâm lại phải in nơi đầu lưỡi, đầu lưỡi kéo lấy niệm căn, tự tánh nghe nghe tự tánh, ba thứ dung hội, niệm niệm viên thông, lâu sau sẽ được thành tựu pháp quán: Duy tâm thức.

Lời phụ giải: Dùng pháp mặc niệm để thành tựu duy tâm thức quán này hơi khó và cao, đa phần dành cho những bực có trình độ khá và cao trên bước đường tu tập. Người thực hành phải dùng quán tâm, không phải dùng niệm tưởng. Không động miệng mà tiếng ấy phải rõ ràng, tiếng ấy là tiếng của tự tâm, dùng lối đem tánh nghe (văn tánh) nghe lại tiếng nói của tự tánh (phản văn văn tự tánh) đó là đã thấm đạt thật tướng của vạn pháp, thâm đạt nhứt thiết duy tâm vậy.

9.- ÐIỀU HÒA HƠI THỞ(^)
Hoặc lúc khí tịnh, tâm bình <!–[if !supportFootnotes]–>[5]<!–[endif]–>, thì trước nên tưởng thân mình đang ở trong vòng hào quang tròn, thầm quán trên đầu chót mũi, tưởng hơi thở ra vào, mỗi một hơi thở thầm niệm một câu A Di Ðà Phật. Phương tiện điều hòa hơi thở, không hưởn không gấp, tâm niệm và hơi thở nương nhau, theo nhau ra, vào; đi, đứng, ngồi nằm đều nên làm như thế, đừng để gián đoạn. Thường phải tự “mật trì,” nhiếp tâm đã lâu, cả hơi thở lẫn câu niệm, cả hai đều không còn phân biệt, tức thâm tâm này cũng đồng với hư không. Trì đến thuần thục, tâm nhãn khai thông, tam muội thoạt nhiên hiện tiền, chính là “Duy tâm tịnh độ” đó.

Lời phụ giải: Pháp này cũng giống như Sổ Tức Quán trong Lục diệu môn. Dùng pháp đếm hơi thở, để điều hòa hơi thở ra vào. Mỗi một hơi thở hoặc ra, hoặc vào đều thầm niệm một câu A Di Ðà Phật đều đều, không nên quá gấp cũng không được quá hưởn, vì sẽ làm chướng ngại cho sự chuyên nhứt. Phật niệm không dứt, tâm được thanh tịnh, trí được chuyên ròng không tạp, hòa hợp với sự bao la vô ngại của Thái hư, tất cả đều duy tự tâm, mà hễ tự tâm thanh tịnh thì quốc độ sẽ hoàn toàn thanh tịnh đối với ta vậy.

10.- TÙY PHẬN(^)
Hoặc lúc hôn trầm nhiều, thời nên kinh hành niệm Phật, hay khi tạp loạn nhiều thì nên ngồi ngay thẳng, yên lặng mà niệm. Giả sử đi hay ngồi đều không hợp, thời hoặc quỳ, hoặc đứng, cho đến tạm nằm, cũng đều cho phương tiện rộng rãi, có thể niệm Phật được cả. Cốt yếu: bốn chữ hồng danh <!–[if !supportFootnotes]–>[6]<!–[endif]–> đừng để một niệm lãng quên, đó là yếu thuật hàng phục tâm ma vậy.

Lời phụ giải: Câu niệm Phật không phải chỉ dành lúc rảnh rang, hay tắm gội sạch sẽ, đến trước bàn Phật, mà nhứt thiết thời không được xao lãng. Bởi tâm niệm chúng sinh hàng ngày quá tạp loạn, hể hở là tạp tưởng xen vào ngay, quấy rối tâm niệm. Như bàn tay quậy vũng nước màn màn, nếu quậy ít hay quên quậy, màn màn sẽ trở lại ngay. Thế nên đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, động, tịnh đều phải cố giữ câu niệm Phật, không cho xen hở. Như ông tướng giữ trại, như con mèo rình chuột, đừng để một niệm gián đoạn. Một câu niệm Phật không hở, tùy phương tiện, tùy trường hợp, miễn sao cố giữ tâm niệm chuyên câu niệm Phật là được.

11.- CHỖ NÀO CŨNG NIỆM PHẬT ÐƯỢC(^)
Không luận chỗ sạch hay chăng, hoặc chỗ vắng vẻ hay chỗ chộn rộn, chỗ vừa dạ hoặc nơi thất ý, chỉ “Hồi quang phản chiếu” <!–[if !supportFootnotes]–>[7]<!–[endif]–> và suy nghĩ: những cảnh thế này ta đã gặp hơn trăm ngàn muôn ức lần, từ nhiều kiếp đến giờ; chỉ có việc “niệm Phật vãng sanh” là ta chưa có thể thực hành trọn vẹn được, nên vẫn còn bị trong vòng lẩn quẩn luân hồi. Giờ đây ta cũng chẳng quản niệm được cùng chăng, chỉ thề giữ chặt “tâm niệm Phật’ này, dầu chết cũng không để dứt “niệm đầu” <!–[if !supportFootnotes]–>[8]<!–[endif]–>. Tại sao? Bởi niệm đầu mà để một phút gián đoạn , thời tất cả thiện, ác, vô ký <!–[if !supportFootnotes]–>[9]<!–[endif]–> bao nhiêu tạp niệm lại sanh. Vì lẽ đó, nên dù lúc đi đại, tiểu tiện hay sản phụ lúc lâm bồn, chỉ chăm chú việc niệm Phật, càng khổ càng niệm, càng đau càng niệm nhiều hơn, như con thơ gọi mẹ, không sợ mẹ hiềm giận, nếu sợ mẹ giận mà không gọi nữa, ắt đứa trẻ sẽ bị sa chân vào hầm phẩn nhơ nhớp, vì những sự dại dột do nó gây nên. Như thế chỉ có chết mất đi mà không làm sao được gặp mẹ.

Lời phụ giải: Thế thường, có người không hiểu cho rằng: vào chỗ nhơ như nhà xí v.v… mà niệm Phật sẽ có tội. Nhưng trong pháp môn niệm Phật thì không phải vậy. Vì câu niệm Phật lúc nào cũng phải ngự trị trong tâm hồn ta; nếu vì lúc ăn, khi đi cầu v.v… mà để dứt, thì tức nhiên tạp niệm sẽ xen vào, mà hễ tạp niệm xen vào được, niệm này sanh niệm khác, nối luôn không dứt, tránh sao khỏi điều tội lỗi, và tránh sao thoát nẻo sanh tử luân hồi.
Chúng ta giờ đây, chưa có thể nhứt thiết thời niệm Phật, nên phiền não niệm xen vào, biết bao điều phiền phức, đau khổ, nhọc nhằn; vậy thời chúng ta hãy cố gắng tập nhiều, tập mãi câu niệm Phật, hễ bận việc thời thôi. bằng hễ rảnh là ta niệm Phật. Không có gì tự nhiên mà được, phải đòi hỏi nhiều cố gắng, nhiều nổ lực, vậy sau mới thành công. Bao nhiêu việc đời sẽ làm ta phiền lụy, muốn tránh bao phiền lụy không chi hơn luôn giữ câu niệm Phật.
Ðức Phật như bà mẹ hiền thương con dại, không có bà mẹ nào là không thương con. Thế nên, ta một lòng tưởng nhớ, tha thiết kêu cầu Ðức Phật sẽ thương mà hiện cứu. Phật không bao giờ bỏ và cũng không bao giờ có giận hờn vì hễ còn giận hờn ắt chưa thể thành Phật, cũng như không có đức Phật, Bồ tát nào mà thiếu lòng từ bi cả.
Xin hãy gắng niệm, đừng khinh mà coi thường.

12. NIỆM PHẬT CÓ ÐỊNH THỜI HAY KHÔNG(^)
Trong pháp thứ mười một, không có định thời, nếu vậy sẽ ít người làm được. Bài này phương tiện nói có định thời là: sớm, tối hai thời, hoạch định thường khóa, từ nay đến suốt đời, không thêm, không bớt, ngoài ra trong suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ, có thể niệm được một câu, thì nên niệm một câu, có thể niệm được nhiều câu, thì nên niệm nhiều câu, bất luận niệm lớn hay nhỏ.
Cổ nhơn có bảo:
Ít nói một câu tạp
Nhiều niệm một câu Phật
Ðẹp đẽ biết bao nhiêu!

Lời phụ giải: Vì sợ có nhiều vị, không thể lúc nào cũng giữ câu niệm Phật được (bởi quá bận kế mưu sinh) nên phải phương tiện định thời. Thế là ai cũng có thể tu Tịnh độ pháp môn được. Nhưng điều cốt yếu: khi đã định thời, thì phải cố gìn, đừng để sai siển, dù lúc bịnh hoạn hay đau khổ.
Tuy nhiên, hễ khi nào rảnh rỗi là ta phải nhớ ngay câu niệm Phật.
Ðánh đổi chúng sinh niệm bằng Phật niệm, tuy không được cao siêu nhưng là một phương tiện hiếm có để chuyển mê thành giác vậy.

13.- CÓ ÐỐI TRƯỚC TƯỢNG HAY KHÔNG TRONG KHI NIỆM PHẬT?(^)
Lúc đối trước tượng Phật, phải cho tượng này là thật Phật, không cần câu chấp một phương hướng nào, chẳng luận một thân nào trong ba thân của Phật <!–[if !supportFootnotes]–>[10]<!–[endif]–>, chỉ tự nghĩ: Ta chỉ nhứt tâm, tâm chỉ nhứt Phật, mắt nhìn tượng Phật, tâm niệm danh Phật, thật hết sức thành kính, mà hết sức thành kính tất được linh cảm.
Lúc không có tượng Phật, nên ngồi ngay ngắn xoay mặt về phương Tây, lúc khởi tâm động niệm, nên niệm tưởng hào quang của đức Phật A Di Ðà trụ trên đỉnh đầu ta, mỗi niệm, mỗi câu, tự chẳng để rơi vào khoảng không, hắc nghiệp cũng có thể tiêu diệt. <!–[if !supportFootnotes]–>[11]<!–[endif]–>

Lời phụ giải: Người sơ cơ chưa có thể quán tự tâm tức Phật, thế nên phương tiện đối trước Phật tượng cho dễ xúc cảnh sanh tâm, nhưng điều cần thiết là phải hết sức thành kính vì hễ có cảm mới có ứng được
Bài này dạy rõ, khỏi phải bàn luận dài dòng, hành giả nên coi kỹ và theo như thế, tội nghiệp sẽ được tiêu trừ, Phật tâm tự hiện.

14.- NIỆM PHẬT TRONG LÚC BẬN RỘN(^)
Nếu niệm được một câu, thì nên niệm một câu, có thể niệm 10 câu, thì nên niệm 10 câu; chỉ làm sao trong 100 điều bận rộn có được trong khoảnh khắc một chút rảnh rang liền buông bỏ thân tâm <!–[if !supportFootnotes]–>[12]<!–[endif]–> sáng suốt tụng trì.
Ngài Bạch Lạc Thiên có bài thi rằng:
Ði niệm A Di Ðà
Ngồi niệm A Di Ðà
Ví dù bận rộn như tên
A Di Ðà Phật niệm lên thường thường.
Người xưa dụng tâm như thế, thật không thể chê được!

Lời phụ giải: Có người quá bận rộn với mực sống, có rảnh đâu nhiều mà niệm Phật; tuy nhiên trong trăm việc bận, chắc cũng có chút thì giờ rảnh, hể rảnh thì niệm Phật, đừng để trí phải nghĩ tưởng vẩn vơ, khổ sầu vô ích. Việc đời chuyện đâu bỏ đó, đeo đẳn làm gì thêm mệt, để thì giờ niệm Phật cho khỏe trí còn hơn không? Có nhiều người để phí bao nhiêu thì giờ tán gẩu những chuyện đâu đâu, chỉ chuốc lấy bao nhiêu điều phiền lụy, do vài câu bất ý trong lúc vui miệng, cũng đủ gây cho lòng những mối lo âu, khổ sở, hay chác cho thân những đau đớn lụy phiền!

15.- LÚC NHÀN RỖI NÊN NIỆM PHẬT(^)
Trong đời có nhiều kẻ quá ư khốn khổ, muốn chút rảnh cũng không sao có được, nên không thể tu hành. Nay ta được rảnh rang, lại nghe biết được pháp niệm Phật này, cần phải gắng gổ, tương tục thúc liễm thân tâm, chuyên trì Phật niệm; như thế mới không uổng phí tấc bóng quang âm. Nếu để tâm niệm buông trôi, không làm được việc gì, luống tiêu bao ngày tháng, cô phụ bốn ân, một mai vô thường thoạt đến, sẽ lấy gì để chống cự đây?

Lời phụ giải: Có người cầu được chút rảnh rang để niệm Phật còn không có, ta nay duyên đời không bận buộc, vậy đừng nên bê trễ nữa, hãy cố gắng niệm Phật, đừng để ngày lại, ngày qua, rồi già, rồi chết, đến khi bây giờ dù muốn rảnh được một chút, sống thêm một giờ để niệm Phật cũng không được. Thật tiếc lắm thay!

16.- NGƯỜI SANG GIÀU PHẢI NÊN NIỆM PHẬT(^)
Phước đức của đời này đều từ việc tu hành kiếp trước. Những gì tôn quí vinh huê, quá nữa là các bực cao tăng chuyển thế. Nhưng tuy có vinh huê mà không được trường cửu, nếu lại tạo điều nghiệp chướng ắt khó thoát khỏi biển trầm luân. Vậy nên các ngài phải tự suy nghĩ: những gì ta có thể mang theo được khi nhắm mắt? Ấy là công đức niệm Phật. Cũng như thuyền đi nhờ nước. Thế nên, hoặc lập thất niệm Phật, hoặc mời chư tăng hướng dẫn mình niệm Phật, in khắc kinh sách Tịnh độ, hoặc đặt tượng Phật A Di Ðà để chiêm ngưỡng mà niệm, việc làm tuy ít, nhưng phải dụng công cho nhiều, lại phải chí quyết vãng sanh, đó là con đường tu hành của tất cả mọi người, chẳng luận giàu, nghèo, sang, hèn. Làm vị sứ giả của ngôi Pháp vương <!–[if !supportFootnotes]–>[13]<!–[endif]–> còn gì tôn quý hơn!
Lời phụ giải: Vạn ban tương bất khứ, duy hữu nghiệp tùy thân, dù ta có nhờ phước đức đã gieo trồng đời trước, hưởng được phú quí vinh huê, song chỉ hưởng tạm mà thôi, khi ba tấc hơi dứt mọi việc buông xuôi, chỉ nắm hai bàn tay trắng. Vậy thì ta có nên bám víu những cái giả ảnh ấy chăng? Chúng ta chắc đã ý thức rõ ràng điều đó. Thế thì chúng ta phải kíp lập thành tích niệm Phật ngay và thật hết lòng cố gắng như chúng ta đã cố gắng lo làm giàu vậy. Người vô trí cho giả là thật, nên chạy theo những cảnh tướng, danh sắc phù phiếm bề ngoài, có được chút vui, song chỉ là cái vui tạm bợ trong chốc lát. Kiếp người chóng tàn, thân người chóng diệt, chỉ có đạo đức thường còn, chân thật, không có những ồ ạt bên ngoài, không có cái vui chốc lát. Xem như Ngài Khổng Tử còn bảo: “Ăn cơm nguội, uống nước lạnh, co tay mà gối đầu cũng có điều vui ở trong vậy!” Cái vui đó mới là cái vui của người trí.

17.- KẺ NGHÈO HÈN CŨNG NÊN NIỆM PHẬT(^)
Than ôi! Có kẻ đã đem thân làm nô lệ, bị người khác sai sử, vất vả, khổ sở, mà không cầu mong thoát khỏi, thì về sau càng khổ hơn.
Nên biết bốn chữ Hồng danh chẳng luận sang, hèn, giàu, nghèo, trẻ, già, trai, gái, chỉ cần mỗi ngày vào lúc sáng sớm chí tâm xây mặt về phương Tây, niệm 10 câu danh hiệu Phật, không xen, không dứt, để cầu sanh Cực Lạc, thì hiện đời sẽ được hưởng nhiều lợi ích, khi thác tự được vãng sanh. Ðức Phật A Di Ðà thiệt là chiếc thuyền cứu mạng cho mọi người trong biển khổ vậy.

Lời phụ giải: Ở đời, đâu có ai nghèo đến nỗi không có thân, tâm? Vậy ta nên đem thân, tâm sẵn có đó niệm Phật. Trong kinh Hiền Ngu Nhơn Duyên có đoạn: Tôn giả Ca Chiên Diên độ bà già ở mướn, bán cái nghèo bằng phương pháp Niệm Phật, bà đã đạt kết quả. Vậy chúng ta nên bắt chước bà già ấy bán quách cái nghèo đi cho rảnh, đeo đẳng làm gì thêm khổ? Khổ mà biết là khổ để tìm phương pháp thoát ly ấy là kẻ trí. Khổ mà vẫn không biết là khổ, lại còn cho cái khổ là vui, thì thiệt hết chỗ nói!

18.- TỊNH TẾ NIỆM PHẬT(^)
Ðã là người có trí huệ thì đừng để bị mê hoặc, cần phải hết sức tịnh tế niệm Phật để cho trí huệ được thêm kiên cố.
Phải biết, người trí niệm Phật thì thiên hạ sẽ có rất nhiều người niệm Phật.Người trí niệm Phật thời những kẻ tu hành theo ngoại đạo sẽ dễ trở về chánh đạo. Tại sao? Vì tiếng tăm của người trí có thể mở lòng dạ họ, vì có tác dụng trí của người trí cứu rổi họ.

Lời phụ giải: Việc làm của người trí sẽ mang đến một ảnh hưởng tốt đẹp và hữu ích cho kẻ thấp hay thiếu trí, trong trường hợp việc làm ấy với ý nghiệp lành. Vậy nên người trí phải tỏ ra xứng đáng sự tin tưởng của mọi người, đừng nên để những việc ngu hèn, những thị dục thấp kém gạt gẫm.
Một người có quyền thế tu niệm, sẽ có ảnh hưởng thật tốt đẹp đến những kẻ chung quanh. Nhờ sự khôn khéo, sáng suốt, cộng vào đó sự tin tưởng mãnh liệt của người lân cận, mà người trí khả dĩ làm được những chuyện to tát có ảnh hưởng đến thế đạo nhơn tâm. Làm một mà kết quả được nhiều, đó là điều của nhiều người mong muốn. Ấy thế mà nhiều kẻ có thể làm được lại không chịu làm, hay làm cho lấy có thì thật đáng tiếc rẻ lắm thay!

19.- LÃO THẬT NIỆM PHẬT(^)
Ðã không cầu danh lợi, cũng không khoe tài năng, chắc thật tu hành thật là rất khó có người làm được.
Tổ sư dạy: Về phương diện tham thiền, bởi tìm một người si độn cũng không có. Nay người niệm Phật chính lo mình không được si độn mà thôi. Hai chữ Lão Thật là một đại lộ thẳng tắp đưa người sang Tây phương vậy. Tại sao? Vì hai chữ Lão Thật là ngoài bốn chữ A Di Ðà Phật không thêm một mảy may vọng tưởng nào.

Lời phụ giải: Người nhứt tâm niệm Phật, không duyên ngoại cảnh, lòng không chao động trước bất cứ một khuấy rối nào, coi như tất cả không có gì dính líu đến mình, con người ấy bề ngoài hình như kẻ ngây ngô, si độn lắm, nhưng trái lại thật là sáng suốt, thật là thanh tịnh đó. Người như thế thật không phải dễ kiếm! Phương chi, trong pháp môn niệm Phật có câu: Niệm bất nhứt bất sanh Tịnh độ. Mà hễ niệm nhứt thì muôn duyên buông bỏ, chuyên ròng câu niệm Phật. Lòng ta niệm Phật cùng lòng Phật tương ưng. Tây phương không lìa đương niệm, không cần đoán xa xét rộng chi cả mà Phật cảnh vẫn hiện tiền. Hy hữu thay Pháp môn Tịnh độ!

20.- ÐƯỢC ÐIỀU VUI MỪNG, NHỚ NIỆM PHẬT(^)
Hoặc nhơn nơi người mà vui, hoặc nhơn nơi việc mà mừng, mối manh tuy nhỏ nhít, nhưng đều là những cảnh vui vẻ của kiếp người. Song phải biết cái vui đó nó hư huyễn không thật, không thể còn lâu, vậy nên nương nơi giây phút tươi vui đó, xoay tâm niệm Phật, thời ắt được nhờ ánh hào quang của Phật, trong thuận cảnh ấy bỏ dứt đi ít nhiều ác niệm, những điều tốt đẹp liên miên, như ý tu hành, mãi đến lúc mạnh chung sẽ được vãng sanh Cực Lạc, há chẳng vui mừng lắm sao!

Lời phụ giải: Kiếp sống của ta vui ít khổ nhiều, có vui chăng chỉ là cái vui tạm bợ, chốc lát qua đi, nhường chỗ cho điều đau khổ dày vò con người. Vậy thì cái vui có bền bĩ gì mà ta lại tự hào hay níu nắm nó.
Những điều vui vẻ đáng cho ta ưa thích, vì nó chơn thật, thường còn ấy là cái vui thanh tịnh của tự tâm. Cảnh Cực Lạc của Phật A Di Ðà sẵn sàng đón tiếp những con người tự tâm được thanh tịnh. Về được đó rồi còn gì vui hơn?

21.- HỨA NGUYỆN NIỆM PHẬT(^)
Trì danh niệm Phật nguyên để cầu vãng sanh nhưng oai phong của chư Phật không thể nghĩ bàn hễ niệm danh hiệu của các Ngài thì sở nguyện đều tùy tâm. Vì lẽ đó, trong kinh dạy: niệm Phật có 10 điều lợi ích (xin xem phần sau). Những việc cầu cúng quỉ thần, tạp tu sự sám, khấn hứa nhiều ác nguyện, tin xằng những việc bói toán xâm quẻ, không bằng dùng phương pháp niệm Phật để cầu nguyện.
Có kẻ hỏi: Vả như niệm Phật mà không ứng nghiệm thì sao?
Ðáp: Ông chưa niệm Phật mà đã lo không ứng nghiệm, chính cái nhơn không ứng nghiệm đó đem đến cái kết quả không ứng nghiệm vậy. Nhơn thế nào thì quả thế nấy, há không đáng sợ lắm sao?

Lời phụ giải: Phật là đấng đại từ, đại bi, đại trí, đại đức, tối tôn vô thượng, là bậc thầy của trời người sáu đường. Thế thì, khi cầu nguyện sao lại không cầu nguyện nơi các Ngài? Thật cũng lấy làm lạ! Có lắm kẻ sợ ma quỉ yêu tinh hơn sợ Phật, có lẽ cho rằng Phật hiền, ma quỉ dữ chăng? Hay tại lòng mình không chơn chánh, vì có điều tội lỗi, vạy tà nên lờn chánh, ngán tà? Người Phật tử hãy suy nghĩ cẩn thận điều này, kẻo mình là Phật tử mà vô tình làm đệ tử ma!

22.- NIỆM PHẬT ÐỂ CẦU CỞI MỞ(^)
Phàm tất cả nghịch cảnh quanh ta, đều do trái duyên nên có hiện (ta phải cố cam nhận chịu) không nên lại khởi ác niệm, để phải dẫn khởi oan trái đến mãi về sau không dứt. Ta phải nên tùy thuận nhận lãnh, có thể tránh được thời tránh, dứt được thời dứt, chỉ tùy nhân duyên mà đừng quên niệm Phật. Phật có vô lượng trí huệ, phước đức quang minh, Ngài sẽ gia hộ cho ta: dù gặp nghịch duyên, trái cảnh, cũng chuyển thành thuận cảnh, thuận duyên ngay.

Lời phụ giải: Oan gia nghi giải bất nghi kết, đừng nên đem oán trả oán, thì oan trái mới dứt. Vậy chỉ có pháp niệm Phật là ổn nhứt.

Ví dù muôn đắng nghìn cay
Một câu niệm Phật tan ngay cấp kỳ
Niệm Phật dứt bỏ oán thù
Lòng không hung dữ ngục tù đâu vương…?
Niệm Phật mở rộng lòng thương
Oán thân bình đẳng tai ương có nào?…

23.- HỔ THẸN TỰ GẮNG NIỆM PHẬT(^)
Phàm đời này hay kiếp trước, ác quả đã thành tựu, thì khổ báo ắt đến, mà một phần khổ ở đời này tức là một phần ác trong kiếp trước, không thể đổ thừa cho vận mạng bất tề, mà chỉ nên tự hổ phận mình chẳng sớm lo tu. Mỗi một khi tưởng Phật, tưởng như lông trong thân đều dựng đứng, năm vóc như rã rời, buồn thương, cảm mến, đau xót, không muốn sống. Như vậy thời mỗi câu, mỗi chữ từ trong gan, tủy mà ra mới là chơn cảnh niệm Phật.
Ngày nay kẻ tăng, người tục niệm Phật, hoặc miệng niệm mà tâm tán, hoặc chỉ nhiếp tâm lúc niệm, dứt niệm thì tâm mê. Lại có người đang lúc niệm Phật xen nói chuyện tạp. Thế thì dù niệm suốt đời cũng không linh cảm. Mọi người thấy vậy, cho rằng: niệm Phật vãng sanh là những lời láo khoét. Lỗi ấy há do Phật sao?

Lời phụ giải: Ta cùng chư Phật động một thể tánh thanh tịnh, không hai không khác, thế mà các Ngài đã giác ngộ, sáng suốt bỏ giả theo chơn, còn chúng ta lại cứ mãi nhận hư làm thật, bội giác hiệp trần, cam chịu quanh quẩn mãi trong vòng khổ lụy trần ai. Thật còn gì hổ thẹn cho bằng! Vậy nên phải vận dụng tận cùng năng lực, hết chí lo tu, lấy chết làm kỳ hạn, cầu thoát sanh tử, không còn nghĩ ngợi, đắm lụy trần ai, để phải nhiều kiếp trôi chìm trong sông mê, bể khổ.

24.- KHẨN THIẾT NIỆM PHẬT(^)
Phàm người ở trong tất cả hoàn cảnh khổ đáng thương, mà ta không thương, tất trái với nhơn tính, nhưng ở trong tất hoàn cảnh đáng thương, ta chỉ thương suông thì làm sao hợp được với tánh Phật? Ðã thương thì phải tìm phương thoát khổ, phải tìm cách cho mọi người rốt ráo thoát khổ. Phải biết rằng: Phật sở dĩ được tôn xưng là Ðấng Ðại Bi, vì Ngài hay cứu khổ cho chúng sinh. Ta do lòng từ bi niệm Phật là cốt cầu lòng từ bi của Phật ban cho, cứu vớt khổ não cho chúng ta, thì cái niệm đó phải khẩn thiết đến bực nào?

Lời phụ giải: Niệm Phật để cầu thoát sinh tử, mà sinh tử là cái vòng xích vô cùng kiên cố, vì nghiệp hoặc phiền não của chúng ta quá đỗi sâu dày, lại thêm tội chướng ngày càng chồng chất lên thêm, nếu niệm lực không kiên cố, tâm niệm không tha thiết chí thành, thì riêng mình nói đến chuyện giải thoát còn là chuyện xa vời, huống là muốn cứu khổ cho người sao? Vậy ta nên hết lòng khẩn thiết niệm Phật để mong được lòng từ bi chiếu cố của Phật, như con thơ tha thiết trông được về với từ mẫu. Họa chăng?

25.- CÚNG DƯỜNG NIỆM PHẬT(^)

Phàm gặp giai tiết (tiết đoan ngũ, tiết trung thu v.v…) hoặc ngày vía Phật, Bồ Tát thì nên hương đăng hoa quả tùy phận cúng dường, nhưng đó chỉ là tài cúng, chưa phải pháp cúng. Pháp cúng thuộc về tâm, quý hơn tất cả tài cúng.

Gần đây, vì tà giáo thạnh hành, bày đặt các pháp cúng kiến, la liệt quả phẩm, tam sanh, heo, dê, gà, vịt có ích gì cho sự tu hành? Thậm chí, còn bày bố trận đồ, chiêu hồn dẫn quỉ, tà mị, dị đoan, càng làm cho hao tài tổn mạng, dối dá bậy bạ, phỉnh gạt người đời.

Chỉ pháp môn niệm Phật thì vạn bịnh tiêu trừ không tốn không hao, lại ít người chịu biết đến. Kính mong những trang thức giả đừng để bị lầm.

Lời phụ giải: Giết mạng sống của kẻ khác để cúng cầu cho mạng mình được sống, thật là hết sức ích kỷ và vô nhân đạo!

Câu: “Thiên địa vô tư, thần minh ám sát, bất dĩ tế hưởng nhi giáng phước, bất dĩ thất lễ nhi giáng họa” sao không suy xét cho kỹ càng. Thần thánh đâu vì của cũng như tham quan ăn hối lộ sao? Trời đất không có lòng tư vị ai, hễ làm lành thì hưởng quả tốt, làm dữ mắc báo xấu thế thôi. Các bậc thần minh thầm xét nghiệm những tâm niệm, hành vi thiện, ác của mình tùy thời răn phạt, nào phải vì ta cúng tế mà các Ngài bỏ qua những điều tội lỗi của ta đâu?

Hơn nữa, tâm mình ngay, thân mình chánh, có sợ gì mà phải bận tâm lo nghĩ?

Khi niệm Phật, Phật hiệu đã ngự trong tâm ta, lòng ta xứng hợp với lòng Phật, cùng xứng hợp một điển lực thanh tịnh, thì tà ma nào dám nhập? Nghe theo tà mị, dị đoan chỉ càng làm cho hàng thức giả chê cười, mà cũng lại chuốc lấy họa hại không ít do một số kẻ lợi dụng lòng tin tưởng và sợ sệt của ta.

Vậy hãy suy nghiệm cho thật chín chắn.

26.- NIỆM PHẬT ÐỂ BÁO ÂN CHA MẸ(^)

Ân của cha mẹ là cái ân to lớn nhứt phải làm sao báo đáp? Cung phụng tất cả những thức uống ăn, lập công danh để hiễn đạt phụ mẫu, chỉ là phép báo đáp của thế gian; mặc dầu không phải là bất thiện, song xét cho tột thì đây chưa phải trọn vẹn (vì dù sao cũng vẫn còn trong vòng khổ lụy của kiếp người). Chỉ có cách là ta niệm Phật và khuyên cha mẹ niệm Phật, đem công đức ấy hồi hướng Tây phương, đó là gieo một hột giống kim cương, về sau ta và cha mẹ cùng tự được giải thoát. Huống chi một câu niệm Phật lại có thể tiêu được vô biên tội chướng. Những ai muốn báo thâm ân cha mẹ, không thể không biết pháp này.

Lời phụ giải: Cung phụng cha mẹ về mặt vật chất, nào quạt nồng, ấp lạnh, món ngon vật lạ, áo ấm cơm no, đó mới chỉ là cái hiếu thế gian mà thôi. Nếu không lo tu nhơn xuất thế, tất phải đọa lạc tam đồ, quanh đi quẩn lại sanh tử không cùng, sao gọi là báo hiếu trọn vẹn được?

Thế tất phải tìm cách nào cho rốt ráo? Chỉ có Pháp môn Tịnh độ Niệm Phật, cầu sau khi xả báo thân này, nương nhờ nguyện lực của Phật A Di Ðà mà được cùng vãng sanh Cực Lạc. Nhờ chiếc thuyền nguyện lực của Phật, bao nhiêu tội chướng của chúng ta dù nặng như đá cũng nương đó mà qua sông dễ dàng. Thế thì công ít mà quả to, ta còn chần chờ gì nữa?

27.- BỐ THÍ BẰNG CÁCH NIỆM PHẬT(^)

Phàm thấy người khổ não, trước phải giúp cho họ an thân (cho cơm, cho áo) rồi sau mới an ủi khuyên họ niệm Phật. Bởi vì cứu cái khổ trong nhứt thời, bố thí là gấp, mà cứu cái khổ nhiều kiếp, phương pháp niệm Phật lại gấp hơn. Hoặc thấy người hay vật bị nạn, sức mình không cứu rỗi được phải gấp niệm Phật cầu an cho hồn thức ấy. Hoặc đêm thanh tụng niệm cầu nguyện cho mọi loài thoát khỏi tai ương. Gặp lúc đao binh, tật dịch, năm canh trì niệm Phật danh, cầu cho chúng sanh được tiêu trừ mọi oan khổ.

Nên quán tưởng: Một câu A Di Ðà Phật của ta đây, trên tột trời Hửu đảnh [14] dưới suốt đáy phong luân [15] mọi loài chúng sanh một thời đều được lợi ích. Cách bố thí đó thật không thể nghĩ bàn vậy.

Lời phụ giải: Trước cho ăn no, mặc ấm để đỡ khổ phần xác, sau khuyên bảo niệm Phật để cứu rỗi linh hồn. Gặp nhiều trường hợp mà sức ta vô khả nại hà, chỉ nên nhứt tâm niệm Phật, vận dùng tất cả điển lành của mình chí hướng về kẻ ấy, cầu nguyện cho họ thoát khỏi khổ lụy của kiếp sống triền miên, giải thoát an nhàn nơi thiện cảnh. Một câu niệm Phật diệt oan khiên.

28.- TỰ TÂM NIỆM, TỰ TÂM NGHE(^)

Tâm tưởng, rồi mới động đến lưỡi, lưỡi khua động thành tiếng lại trở vào tự tâm, là pháp: Tâm niệm tâm nghe vậy.

Mà hễ tâm niệm tâm nghe thời mắt không thể thấy bậy, mũi không thể ngửi bậy, thân không thể động bậy, vị chủ nhơn ông (tự tâm) đã bị bốn chữ A Di Ðà Phật bắt cóc mất rồi.

Lời phụ giải: Niệm tức là niệm tự tâm Phật, tai nghe tiếng niệm là nghe tiếng của tự tâm, tiếng ấy từ tự tâm mà ra, rồi lại chạy ngược vào tự tâm, xây vòng như vậy, thời một mảy vọng tưởng cũng không còn, tất cả vọng trần, vọng cảnh cũng từ đấy mà diệt.

Niệm Phật niệm tâm, tâm niệm Phật

Tham thiền tham tánh, tánh tham thiền.

29.- NIỆM PHẬT TRONG TIẾNG NIỆM(^)

Tiếng niệm Phật đã thuần thục rồi, thời trong sáu trần chỉ còn một thinh trần. Tất cả sáu căn hoàn toàn gởi nơi nhĩ căn (lổ tai). Thân cũng không còn cảm biết tới lui, lưỡi cũng không còn biết khua động, ý cũng không còn cảm biết phân biệt, mũi cũng không còn cảm biết hít thở, mắt cũng không còn cảm thấy mở nhắm. Hai thứ viên thông của hai ngài Quán Âm và Thế Chí cũng tức là một, không chi là chẳng viên và chẳng chi là không thông cả. Vì căn tức là trần, trần tức là căn, căn và trần tức là thức. Mười tám giới [16] đều dung hợp thành một giới. Trước chưa được thuần, lâu sau sẽ dần dần thâm nhập.

Phàm trong khi niệm Phật, phải lựa một chỗ vắng, yên, sạch sẽ, khoảng 4,5 thước vuông, đi nhiễu một vòng theo phía tay mặt, rồi sau từ từ cất tiếng niệm Phật, tiếng cao lên dần dần, niệm như vậy độ 3 vòng trở lên sẽ tự cảm thấy tâm, tiếng to bay vòng quanh khắp thái hư, bao bọc cả 10 phương, trùm đầy toàn pháp giới. Ðó là cách an trụ thân tâm, thế giới vào trong tiếng niệm Phật, và đó là đem thân, tâm của mình an trụ trong tiếng niệm Phật mà niệm Phật. Ðây là cảnh thù thắng để tiêu diệt tâm địa phiền não nhơ trược, hành giải cần phải gắng tập cho kỳ được.

(Bài này chỉ vẽ rõ ràng, không cần phụ giải)

30.- NIỆM PHẬT TRONG ÁNH SÁNG CỦA TỰ TÂM(^)

Phàm tiếng là tiếng của tự tâm, thì ánh sáng cũng là ánh sáng của tự tâm. Hễ tiếng của tự tâm quanh lộn ở chỗ nào thì ánh sáng của tự tâm phóng ra ở chỗ ấy; nếu ta an trụ trong tiếng của tự tâm mà niệm Phật, tức là an trụ trong ánh sáng của tự tâm mà niệm Phật vậy. Ðây cũng là cảnh thù thắng diệt được lòng tham phiền não nhơ bẩn, hành giả nên gắng siêng tu tập.

31.- NIỆM PHẬT TRONG THỂ CỦA TỰ TÂM(^)

Tiếng nói của tự tâm vòng quây và ánh sáng tự tâm chiếu phát, tự nhiên tâm thể phơi bày. Một chơn tâm này như tấm gương tròn lớn (Ðại viên cảnh) rỗng thông sáng suốt, không gì ngăn ngại, mười phương, ba đời, ta, Phật, và chúng sanh, vòng khổ của đời trược, đài sen nơi cảnh tịnh đều là bóng trong gương cả. Cho nên niệm Phật trong tiếng tức trong ánh sáng, trong ánh sáng tức trong gương không phải một, khác. Ðây cũng là cảnh thù thắng tột cùng, diệt hẳn được tâm nhơ, cần phải gia công hết lòng tu tập.

Lời phụ giải: Tâm thể vốn luôn luôn thanh tịnh (tịch), nhưng hằng phát khởi diệu dụng sai thù (chiếu). Khi chúng ta nhận được toàn thể đại dụng không ngoài tánh thể thường như, thì bấy giờ, tâm, Phật và chúng sanh vốn chỉ là một, rỗng thông, sáng suốt, không gì ngăn ngại. Thật hành pháp niệm Phật mà đạt được như đây, thật quả là bậc đại căn tánh vậy! Muôn pháp đều chỉ là bóng hình trong gương, vốn dĩ hư huyễn, tự sanh, tự diệt, đâu can phạm gì đến tánh thể tự cổ thường như, bất sanh bất diệt của chơn tâm. Thấu triệt được lý này ắt đã thoát được ngoài dòng cương tỏa của không gian và thời gian rồi vậy.

32.- KHÔNG DỨT(^)

Buổi sáng niệm, buổi tối cũng niệm; vô sự niệm, hữu sự cũng niệm; chỗ sạch niệm, chỗ nhơ vẫn niệm, không một niệm nào mà không phải là niệm Phật. Giả sử hàng ngày có sự thù tiếp bạn bè, đãi đằng khách khứa, có lúc gián đoạn, nhưng chỉ gián đoạn thinh niệm, chớ không thể gián đoạn được tâm niệm. Niệm Phật mà công phu đến thế, thì dễ thành Tam muội lắm.

33.- KHÔNG TẠP(^)

Không xen tạp niệm tức là Chỉ, Chỉ là nhơn của Ðịnh, dừng được tạp niệm, thì chánh niệm (định) tự nhiên phát hiện.

Tạp niệm có 3: Thiện, ác, và vô ký, trừ hết ba thứ mới là không tạp. Tâm cần vắng lặng, vắng lặng thời các niệm thiện, ác không sanh. Tâm cần sáng suốt, sáng suốt thời vô ký niệm không có.

Ngoài Phật không có niệm nên tường vắng lặng, trong niệm có Phật nên thường sáng suốt rõ ràng.

34.- KHÔNG DỪNG(^)

không dừng tức là Quán, Quán là nhơn của Huệ. Câu (niệm Phật) trước đã qua, câu sau chưa đến, câu hiện tại cũng không dừng. Cứ thế mà quán sát, rõ ràng nhưng không thể được (không câu chấp), không thể được nhưng lại rõ ràng. Ðuổi như vậy mãi sẽ thấu đạt lẽ vạn pháp duy tâm, tức Phật tức tâm, tức tâm tức Phật.

Lời phụ giải: (cho cả ba pháp trên) Niệm Phật tức niệm tự tâm Phật, cho nên không ngại gì chỗ nhơ sạch. Lại chúng sanh vốn đồng một thể tánh chơn tâm với Phật, vì vọng động bất giác nên để tánh Phật vốn sẵn sáng suốt phải bị phiền não vô minh che lấp, làm cho mê tối đảo điên, càng ngày càng chạy theo vọng trần vọng cảnh, xa lần thật thể, nhận giả làm chân; bấy giờ nhất niệm giác ngộ quay về ánh sáng của tâm, thì dễ gì trong một ít thời gian mà có thể bôi xóa đi được những phiền não đen tối vốn nhuộm đậm từ lâu. Thế nên, chúng ta cần phải luôn luôn liên tục theo dõi câu niệm Phật (niệm Phật tức niệm tự tâm Phật) Phật niệm liên tục mãi mãi thì chúng sanh niệm không còn, thế nên dù có bận rộn gì cũng chỉ gián đoạn được thinh niệm mà thôi, chớ làm sao ràng buộc được tâm niệm bên trong của chúng ta? Khi mà tâm chúng ta thuần một Phật niệm thì tạp niệm đâu còn? Tạp niệm bặt dứt (gió dừng) tâm không còn bị gì làm chao động nữa, bấy giờ tự tâm an nhiên tại định (nước lặng) thì muôn tượng hiện bày, không thiếu sót một mảy may, bấy giờ vạn pháp đương nhiên hiển lộ, tự tâm quán chiếu một cách thần diệu phi thường (huệ). Hành giả thật hành pháp môn niệm Phật được như đây quả đã đạt đến viên mãn cứu cánh rồi vậy.

35.- TỨC THIỀN TỨC PHẬT(^)

Hoặc khởi từ một câu thoại đầu gọi là tham thiền, hoặc ngồi mà dứt niệm gọi là tọa thiền. Tham hay tọa đều là Thiền cả, Thiền hay Phật đều là tâm cả. Thiền tức là Thiền của Phật. Phật tức là Phật của Thiền. Pháp môn niệm Phật đâu có gì ngại với pháp tham thiền, tọa thiền? Vả lại, người tham thiền có thể dùng bốn chữ A Di Ðà Phật làm một câu thoại đầu, niệm đến, niệm lui, niệm xuôi, niệm ngược, trở lại, xây qua không rời đương niệm, mặc dù không nói tham thiền, mà thiền ở trong đó rồi. Người tọa thiền cần phải đến giaI đoạn một niệm tương ưng, hoát nhiên như vinh vào hỗ hư không, mới là Ðắc thủ [17]. Niệm Phật đến lúc nhứt tâm bất loạn, không phải là tương ưng là gì?

Niệm đến lúc tâm không, không phải vĩnh viễn tương ưng sao? Trong lúc niệm Phật, không hôn trầm, không tán loạn, chỉ, quán, định, huệ mỗi niệm viên thành; nếu muốn tìm thiền, thiền ở đâu nữa?

Lời phụ giải: Thiền tức Tịnh vì Thiền hay Tịnh đều cầu đạt mục đích nhứt tâm bất loạn, phương tiện tuy hai, nhưng kết quả vẫn một, mà Thiền thì khó thập bội!

Trong Quy ngươn trực chỉ có đoạn thí dụ người tu các pháp môn khác, như thiền v.v… mà đi đến mục đích, khác nào như con kiến bò lên núi cao, như con mọt đục từng mắt tre mà lên, từ gốc cho đến tận ngọn. Pháp môn Tịnh độ niệm Phật thẳng tắt nhờ tha lực, như thuyền thuận buồm, xuôi nước, như con mọt đục ngang cây tre mà ra, còn gì nhanh chóng hơn!

36.- TỨC GIỚI TỨC PHẬT(^)

Trì giới luật của Phật để trị thân, trì danh hiệu của Phật để trị tâm. Trì lâu thì thân thuần, niệm lâu được tâm không. Tánh của niệm hay tánh của giới không hai; luôn luôn trì giới thì tội lỗi không hiện, luôn luôn niệm Phật, thời lúc lâm chung đánh tan được quỷ môn quan, vượt khỏi ba cõi. Nếu giữ giới đã có công phu, liền đem công đức này hồi hướng Tây phương, chắc được về trung phẩm. Còn như chưa có thể giữ trọn cả hai, thời nên phải siêng niệm Phật, như cứu lửa cháy đầu.

Lời phụ giải: Trì giới cốt làm cho tự tâm thanh tịnh, vì không gây tội lỗi, không có hối hận. Niệm Phật cũng cốt cho thanh tịnh tự tâm. Vậy nên trì giới tức là niệm Phật. Nhưng niệm Phật là phương tiện thiết yếu hơn khi người chưa giữ giới được trọn vẹn. Thế nên ta hãy cấp tốc niệm Phật, để cho tâm tịnh rồi thì tự nhiên giới được thanh tịnh.

37.- TỨC GIÁO TỨC PHẬT (^)

Một Ðại tạng kinh đều từ tâm khởi, tâm nếu không Phật thì giáo lý cũng luống mà thôi. Nhưng có tâm ai mà không Phật? Chỉ vì tự mình không niệm vậy. Người có học giáo lý, ắt có coi kinh Lăng Nghiêm, mà cói coi kinh Lăng Nghiêm ắt có kẻ chê đức Thế Chí mà trọng đức Quán Âm, một chút chấp trước đó cũng đủ kết thành nguồn gốc sanh tử, dù học hay, thấy xa, hiểu rộng, chẳng qua chỉ giúp cho cái mầm khổ thêm tuổi mà thôi, không giúp ích được gì trong việc thoát ly sanh tử. Xin hãy mau bỏ đi, bỏ tất cả, để tâm niệm Phật cầu vãng sanh Tây phương, gần gũi đức Di Ðà. Còn nếu không buông bỏ được thì hãy đem công đức học kinh, giảng thuyết này hồi hướng Tây phương, phát bốn điều thệ nguyện rộng lớn, cũng được kết quả không luống. Thoảng hoặc hoằng dương được pháp môn Tịnh Ðộ, nói cho người ta hiểu công đức niệm Phật, thời nháy mắt, động niệm đều là trang nghiêm Tịnh Ðộ, thế thì được vãng sanh thượng phẩm đâu còn nghi gì?

Lời phụ giải: Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Thế Chí tu niệm Phật tam muội đắc nhập viên thông, còn đức Quán Thế Âm tu nhĩ căn mà được chứng viên thông, hai vị đồng chứng viên thông như nhau. Nhưng vì theo căn tánh tương hợp của chúng sanh Ta Bà mà khi vâng lời Phật tuyển trạch viên căn, đức Văn Thù phải chọn nhĩ căn của đức Quán Âm là đệ nhứt, nếu không hiểu hoặc chấp giáo, cho là đức Quán Âm hơn đức Thế Chí, tất sái với tinh thần giáo điển. Thế là vì chấp giáo lý mà có sanh phân biệt hơn kém do cái ngã kiến sẵn có tự hồi nào đến giờ, làm cho ta mê mờ dễ sanh dị kiến, dễ tạo điều khổ ngay trong tự tâm và cái khổ vẫn gắn bó mãi mãi đến vô tận. Thật nguy hiểm thay!

Học, hiểu, giảng hay, nói giỏi mà cứ bị gò bó trong sự học, hiểu, đầu óc phải bị chi ly, phiền toái trong văn tự, ngôn ngữ, có khác gì con tằm mắc trong cái kén, rồi cũng đến chết ở trong đó mà thôi!

Chi bằng đem hết thân mạng để trang nghiêm Tịnh Ðộ, hay dùng cách lão thật niệm Phật để cầu sanh Cực Lạc còn hơn, cứ nói thánh nói tướng, bàn ra tán vào, luận dọc luận ngang đều làm rối đạo niệm, không ích gì cho việc thoát ly sanh tử cả!

Thoảng hoặc tận dụng sở học, sở hiểu cùng tất cả sở năng ra xiển dương pháp môn Tịnh Ðộ, hay rộng tán thán công đức niệm Phật, phương tiện diễn dụ khắp ba căn đồng tu hành niệm Phật tam muội, thời thật ngày vãng sanh về Cực lạc không xa mấy đâu!

38.- KHÔNG TRÌ MÀ TRÌ(^)

Khi vừa làm xong một việc gì, hay lúc nói dứt một lời nào, còn chưa kịp đá động đến câu niệm Phật, nhưng bốn chữ Hồng danh của Phật đã nổi hiện lên ngay. Ðây là trạng thái dễ thành tam muội (chánh định).

39.- TRÌ MÀ KHÔNG TRÌ(^)

Trì danh niệm Phật không mỏi chán, khoan khoái lại càng khoan khoái hơn.

Trong lúc niệm Phật, trì niệm bốn chữ thật rõ ràng, niệm đầu không lay động, bốn chữ bỗng nhiên tạm dừng. Cũng không phải có cái niệm tức bốn chữ, cũng không có cái niệm ngoài bốn chữ, như thế có thể tạm gọi là được thắng cảnh, chớ chưa phải thật tâm không. Nhưng siêng năng niệm Phật, cảnh này thường hiện, thời dần dần được tâm không. Nếu nhơn một niệm tâm không liền bị hôn trầm thì gọi là không có Huệ.

Phải biết rằng: tâm càng không thời niệm càng linh, tâm càng không thời niệm càng tịnh, đem cái ta trong tâm Phật mà niệm Phật ở trong tâm ta, không và bất không (có) đâu còn xứ sở? Ví như mặt trời, mặt trăng rực rỡ nơi bửu cung, vòng quanh núi Tu Di, châu lưu chiếu thiên hạ.

Ôi! Còn gì bằng Diệu giác được viên minh!

Lời phụ giải: (cho cả hai pháp trên) Niệm Phật khi đã đến mức vô công dụng thì tự tại vô ngại, không cần dụng công, không cần tác ý, không niệm mà vẫn không lìa niệm, có niệm cũng không lìa thể vô niệm của tự tâm.

Như khi chúng ta mới tập đi xe đạp, thì cả đầu, mình, hai tay, hai chân đều như vận dụng tất cả, thế mà xe vẫn nghiêng ngả, lủi đây, lủi kia, quanh qua lộn lại, thế mà khi ta đã thuần thục, tay không cần cầm, thân không cần uốn, chân đạp tự nhiên, không dụng công gì mà chiếc xe chạy ngay đi thẳng, không khó khăn như khi ta mới tập.

“Thế thường vô nan sự, đô lai tâm bất chuyên,” ở trên đời không có gì là khó, là không làm được, chỉ sợ ta không làm và có làm lại không bền chí, thì chung qui việc gì cũng chẳng ra việc gì cả. Thế mới đáng ân hận!

40.- CÔ THÂN NIỆM PHẬT(^)

Tỳ kheo tu hành không cần bạn lữ. Cảnh niệm Phật càng cô tịch càng hay! Cao thấp tùy hợp, hưởn gấp tùy phần, cốt mong cầu được thành một khối (nhứt tâm). Chính lúc bấy giờ nên biết: thân côi nhưng tâm không côi, vì tâm của chư Phật và đức Di Ðà chưa từng tạm rời ta. Móng lòng là Phật biết, khởi niệm thì Phật hay, lo gì cô tịch? Nếu Pháp môn Tịnh độ còn điều gì chưa thiệt hiểu rõ, nên tìm kinh sách Tịnh độ mà coi. Như kinh A Di Ðà, kinh Quán Vô Lượng Thọ, Thiên Thai Trí Giả Ðại Sư Thập Nghi Luận, Thiên Như Hòa Thượng Tịnh Ðộ Hoặc Vấn, Ðại Hựu Thiền Sư Tịnh Ðộ Chỉ Quy, Long Thơ Tịnh Ðộ Văn, Tịnh Ðộ Thần Chung, Tây Phương Công Cứ, Tây Phương Xác Chỉ, Di Ðà Sớ Sao v.v… Ðây chỉ dẫn một ít điều rõ ràng dễ hiểu, ngoài ra, còn nhiều thứ hay ho hơn, không kể xiết. Nên tìm học hỏi nơi các bậc cao minh thông hiểu Tịnh độ.

Lời phụ giải: Người tu hành cần nơi vắng vẻ để cho tâm niệm được chuyên, nhứt là tu Tịnh độ. Vì không nhứt tâm tức không thể sanh Tịnh độ, mà muốn nhứt tâm, đầu tiên phải tìm chỗ yên lặng để lắng tâm tư. Như mặt nước có đứng lặng thì muôn sao mới hiện, mà muốn mặt nước lặng không gì hơn là đừng có gió. Khi đã nhập vào thể tịch của tự tâm tức đã nhập vào pháp giới thân của chư Phật, bấy giờ không chỉ một ngọn đèn huệ của ta độc hiện, mà ta đã hòa đồng cùng vô lượng vô biên huệ đăng của mười phương chư Phật, ai bảo là cô tịch? Chỉ sợ ta dại dột không hiểu, mà lo đua chen chốn trần tục lao xao, đến khi bỏ xác thân này, lại một mình một bóng lui thui vào chốn địa ngục A Tỳ, đây mới thiệt là cô tịch.

41.- KẾT KỲ NIỆM PHẬT(^)

Kết kỳ là kết thất (7 ngày làm một kỳ), nếu kết kỳ một mình, thì nên sắm bốn thứ để ăn: cơm khô, trái cây, gừng sống, dầu mè; tám thứ để dùng: lư hương, đèn dầu, bồ đoàn (đồ để ngồi thiền), ghế dựa, áo bông (đồ ấm), khăn hay mũ, thùng vệ sinh, giấy vệ sinh (giấy sút). Ngoài 12 thứ đó, không để một thứ gì cả. Có thể trong suốt một tuần, không cho ai lai vãng, để rảnh rang niệm Phật.

Nếu có 5,6 người đồng phát tâm kết kỳ niệm Phật, thời cần phải thỉnh một vị hộ thất, lập qui điều cho nghiêm chỉnh dán ở trước cửa.

Tất cả mọi cử động, uống ăn, hương hoa đăng quả, đều do vị hộ thất cung cấp đầy đủ, thời những người đồng thất cũng có thể suốt trong bảy ngày chí tâm niệm Phật. Nếu còn hạn cuộc trong tình chấp buộc ràng, chưa biết những điều lợi hại của việc tu hành, thì đừng nên sớm khinh suất mà làm việc này.

Lời phụ giải: Sợ không vào thất kết kỳ, thì bao nhiêu công chuyện ngoài đời, hoặc khách khứa bạn bè, không sao được yên tịnh mà niệm Phật. Thế nên cần phải kết kỳ, tức là lập thế trốn khách, trốn việc vậy. Những thứ cần dùng phải sắm đủ, để khỏi phải bận tâm, không nghĩ móng, hoặc nhờ hỏi người ngoài, hầu yên tâm niệm Phật. Ðây chỉ nói đến bảy ngày, nhưng nếu người nhiều phương tiện, hoặc rảnh rang, có thể kết hai hoặc ba thất v.v… không hạn cuộc. Khi đã quyết định, thì đừng để ngoại sự chi phối, rồi nửa chừng dở thất, nếu chưa hết kỳ mà vội mở cửa, thì thật là chua! Nên biết rằng: người tu, càng tu nhiều ma càng khảo nhiều, nên không thể lơ mơ được, bởi thế nên phải hiểu và phải nhận định kỹ trước khi làm, không thể thua cuộc mà hỏng việc, lại để cười cho kẻ bàng quan.

42.- TỤ HỘI NIỆM PHẬT(^)

4,5 người hẹn nhau hội họp tu pháp niệm Phật. Trước hết phải đặt điều ước, trật tự, sau mới bắt đầu niệm. Lúc đầu niệm thì một tiếng mỏ một tiếng niệm, một người xướng bao nhiêu người niệm theo, đều đều không nên so le, lộn xộn mà làm loạn động tâm người đồng niệm.

(Pháp này không kết thất như pháp trên, mà tùy phương tiện tu tập thế thôi, bao nhiêu người cũng được, bao nhiêu ngày cũng không hạn cuộc.)

43.- NIỆM PHẬT ÐỂ THÀNH TỰU CHO NGƯỜI(^)

Hoặc ở yên một chỗ niệm Phật mà cầu nguyện cho người, hoặc đồng với người khác kết kỳ niệm Phật. Hoặc đem pháp môn niệm Phật chỉ dạy cho người biết, hoặc cho người mượn sách Tịnh Ðộ mà xem, hoặc phá những mối nghi lầm của người khác trong pháp môn này, hoặc khuyên người bền chí niệm Phật, những việc ấy đều tốt và đều có công đức cả.

Nhưng nếu người trong lúc lâm chung mà có mình đến hộ niệm, khiến cho người bịnh luôn luôn nhớ câu niệm Phật, vừa nhớ vừa niệm, làm cho người ấy sau khi tắt hơi rồi được vãng sanh về cõi Tây phương, đó là thành tựu pháp thân huệ mạng cho người, công đức này còn thù thắng hơn.

(Pháp này không có gì là khó hiểu cả.)

44.- KHI CÓ TAI NẠN NÊN NIỆM PHẬT(^)

Phàm lúc xảy ra tai nạn, mà nhớ phát tâm niệm Phật, tất có kỳ ứng (ứng nghiệm lạ thường). Tuy rằng một nước bị can qua hay một làng bị dịch lệ, mà niệm Phật để cầu, thì một người niệm một người an, trăm người niệm trăm người an. Không phải Phật có lòng riêng, lúc nào cũng trong ánh sáng bình đẳng, vô tâm mà ứng hiện. Vì sao? Vì động niệm thành tiếng tự mình rõ biết hào quang sáng của đức Phật A Di Ðà trụ trên đỉnh đầu ta, thời tự nhiên mỗi niệm đầy đủ, mỗi niệm bền chắc, mỗi niệm dài lâu, thời hào quang của Phật chiếu đến gia hộ các vị thiện thần độ trì, tự mình có thể lìa khỏi nạn tai, xin đừng chuyển niệm.

Lời phụ giải: Có người bảo: niệm Phật làm sao dứt được nạn này, nạn khác? Ðó là tại vì mình không tha thiết, hay niệm mà lòng vẫn nghi ngờ, thì bao nhiêu đó cũng chứng tỏ không đem kết quả tốt đến cho mình rồi. Nên hiểu rằng: Tâm mình lúc bấy giờ chỉ nghĩ có một chuyện niệm Phật ngoài ra không nghĩ gì khác, một niệm quên thân, một niệm an tâm ấy càng kéo dài, thì khổ nào đày ải ta được? Câu “Linh tại ngã bất linh tại ngã” có ý vị lắm thay! Một người rồi nhiều người bắt đầu niệm Phật tức là chuyển ác niệm thành thiện niệm, thiện niệm ấy càng kéo dài thì tai nạn nào mà không khỏi, tội khổ gì mà chẳng an?

Ngoài ra trong kinh ghi 10 điều lợi ích của sự niệm Phật, tôi xin kính ghi chép ra đây để quý vị tin mà cố gắng:

  1. Thường được chư Phật ngày đêm hộ niệm, đức Phật A Di Ðà phóng quang nhiếp thọ.
  2. Thường được 25 vị Ðại Bồ Tát như đức Quán Thế Âm thủ hộ.
  3. Ngày đêm thường được chư thiên cùng đại lực thần tướng ẩn hình ủng hộ.
  4. Tất cả dạ xoa, ác quỉ, rắn độc, thuốc độc đều không thể làm hại.
  5. Không bị những tai nạn: nước, lửa, đao, tên, gông, xiềng, lao ngục, giặc cướp, oan gia cùng các thứ chết dữ.
  6. Những tội đã làm thảy đều tiêu diệt, những kẻ chết oan vì mình đều được giải thoát, không còn kết oán ràng buộc.
  7. Ban đêm nằm ngủ thường thấy điềm lành, hoặc thấy sắc thân  thắng diệu của Phật A Di Ðà.
  8. Tâm thường vui vẻ, sắc thường tươi nhuận, khí lực đầy đủ, việc làm có kết quả tốt đẹp lợi ích.
  9. Mọi người trông thấy đều vui mừng, cung kính hoặc lễ bái cũng như kỉnh Phật.
  10. Khi mạng chung tâm không sợ hãi, chánh niệm hiện ra, được Tây Phương Tam Thánh tiếp dẫn sanh về Tịnh độ hưởng sự an vui không cùng!”

45.- NIỆM PHẬT TRONG LÚC CHIÊM BAO(^)

Nguyện lực bền chắc, công phu tinh nhuần, ban ngày giữ niệm khăn khăn, ban đêm vẫn giữ niệm khư khư, thời trong giấc chiêm bao tự mình có thể niệm Phật, đó là triệu chứng sắp vãng sanh, vậy phải giữ điều hòa và phải cố gắng lên mãi, đừng lui đừng loạn.

Lời phụ giải: Niệm Phật đến giai đoạn này, thật đã khá tinh nhuần. Có nhiều người niệm được ban đêm, ban ngày không, lúc thức niệm lúc ngủ không. Như vậy tất còn gián đoạn, do công phu chưa thuần. Phải tập thế nào: luôn luôn giữ niệm niệm Phật, dù khi thức hay lúc chiêm bao. Muốn tập điều này thì trước khi đi ngủ hãy cố niệm Phật cho đến khi nào ngủ mòm mới thôi, lại trước khi lên giường phải đánh thức tâm niệm Phật bằng cách tự dặn dò: muốn thoát ly sanh tử không gì hơn ngươi phải luôn nhớ niệm Phật, dù khi thức hay lúc ngủ. Mỗi hôm nhớ dặn thế, sẽ quen dần dần, tự nhiên có kết quả. Quí vị muốn khuya thức dậy đúng giờ nên tập theo cách này: trước khi đi ngủ phải dặn thành tiếng: “Ðúng 5 giờ (hay 4 giờ tùy) phải thức dậy,” nói đôi ba lần như thế, sáng ra sẽ dậy đúng giờ, nhưng nên nhớ một vài ngày đầu có khi bị xê dịch ít nhiều, vì ý niệm chưa thuần, nhưng sau đó thi sẽ thức đúng dần dần, rồi thì đúng hẳn, mười hôm như một. Ðiều này gọi là tập quen thành lệ chớ không có gì lạ cả.

46.- NIỆM PHẬT TRONG LÚC BỊNH(^)

Bịnh là cơ sắp chết, chết là mối quan hệ của các thánh, phàm, tịnh, uế. Trong lúc bịnh (bịnh nặng) phải khởi tưởng niệm là sẽ chết (để không sợ chết). Phải siêng niệm Phật, quyết định chờ chết, ắt có hào quang của Phật đến tiếp dẫn, làm toại chí nguyện vãng sanh của ta. Nếu trong lúc bịnh, dừng không niệm Phật thì tất cả sự ái luyến sợ sệt, phiền não hiện lên rần rần, các thứ tạp niệm nhứt tề nổi dậy. Thế thì con đường sanh tử lấy gì cứu vớt? Ngày xưa có một vị Tăng bịnh nặng, rên thành tiếng “Ôi cha.” bỗng tự biết người tu lúc nghĩ nhớ đến đạo mà lại rên như thế là sai, liền khởi niệm A Di Ðà Phật. Nhưng cơn đau không chịu dứt, nên một tiếng rên “ôi cha” là một tiếng niệm Phật tiếp theo, ngày đêm không dứt. Khi bịnh lành, thầy bảo mọi người: “Trong lúc bịnh tôi rên thành tiếng “ôi cha” và chen một tiếng niệm A Di Ðà Phật, hôm nay bịnh lành, tiếng A Di Ðà Phật hiện còn mà tiếng rên “ôi cha” chẳng biết biến đâu.”

Hy hữu thay! Ðây là trường hợp tinh tấn trong lúc bịnh vậy.

Lời phụ giải: Ở đời, có ai khỏi chết, thế mà có kẻ sợ chết đến thành đốn hèn, hay tham sống đến quên chết, thật khổ thay!

Sợ chết rồi cũng không thoát chết, thì có sợ cũng bằng thừa. Ngày xưa có nhiều vị làm những chuyện có thể gọi là đáng buồn cười, thế mà thật là ý vị: Sắm sẵn một cái hòm (quan tài), đêm đêm vào ngủ trong ấy, thật là một việc mà người đời ai cũng sợ. Một người thân, rất thân, vừa mới dứt hơi có kẻ đã không dám léo hánh đến gần, đừng nói dở mặt để xem. Vào ngủ trong hòm, cho biết rằng vị ấy coi cái chết như một giấc ngủ, không có gì đáng sợ, hơn nữa để thấy rằng: Cái chết nó sẵn sàng đến với ta bất cứ lúc nào, để mà không sợ chết, chỉ có lo vun quén cho mình một kiếp sống không bao giờ chết: con đường giải thoát. Vậy chúng ta hãy cố mà niệm Phật, đừng sợ chết, vì cái chết của một xác thân này chỉ là một sự cởi một cái lốt tạm của vô lượng thân vô thường biến chuyển về sau, nếu ta chưa được giải thoát!

47.- PHÚT LÂM CHUNG NÊN NIỆM PHẬT(^)

Phút lâm chung nên cố gắng ghi nhớ 4 chữ A Di Ðà Phật đừng để sót quên. Nếu niệm lớn được thời niệm, còn không niệm lớn được thì niệm nhỏ. Trường hợp lớn nhỏ đều không niệm được (vì quá mệt) thì nên ghi khắc thầm tưởng 4 chữ trong thâm tâm, đừng cho quên sót.

Những người hầu hạ chung quanh phải thường nhắc nhở khuyến khích người bịnh nhớ Phật, niệm Phật.

Phải biết rằng: trong nhiều đời, nhiều kiếp, vì ta bị loạn niệm trong lúc này (gần chết) mà phải luân hồi mãi trong vòng ba cõi. Tại sao? Vì sanh tử, luân hồi đều do nhứt niệm làm chủ. Nếu nhứt niệm chuyên chú niệm Phật, thì thân tuy chết nhưng tâm thần không tán loạn, liền theo nhứt niệm ấy vãng sanh Tịnh độ.

Vậy nên hãy nhứt tâm ghi nhớ bốn chữ A Di Ðà Phật đừng quên!

Lời phụ giải: Người tu Tịnh độ khi gần mạng chung, nên phải dự tính rằng: Phút lâm chung là điều quan trọng cuối cùng của đời người tu hành niệm Phật, nếu giữ gìn không kỹ, vận dụng không khéo, thì chẳng những luống uổng công phu trong một đời là vẫn mang cái khổ lụy luân hồi sanh tử, không sao tránh khỏi. Huống chi thân ta đây do nơi nghiệp thức, nhờ chút tinh cha, huyết mẹ tạo nên, hễ có hình phải có hoại, có sanh tất có tử, thật không vĩnh viễn tồn tại.

Còn cõi ta ở đây, đầy đủ uế trược, ác hiểm, cũng từ nơi vọng nghiệp nhơ bẩn mà sanh, không phải là cảnh thanh tịnh, an nhàn đáng cho ta quyến luyến. Ngày nay ta nhứt tâm niệm Phật cầu khi bỏ thân này được vãng sanh Tây phương Cực Lạc, chẳng khác nào bỏ áo cũ dơ, mặc áo mới sạch, thì còn mong gì hơn nữa.

Nếu suy nghĩ, dự tính được như thế, thì đến khi sắp chết, trong lòng không còn tham luyến sắc thân, ngoài không còn đắm mến cõi đời, nhứt tâm chánh niệm trực vãng Tây phương, dù sức muôn trâu cũng không kéo lại được.

48.- PHÁT NGUYỆN SÁM HỐI NIỆM PHẬT(^)

Than ôi! Trong đời có thiếu gì kẻ không biết niệm Phật, có người cho niệm Phật là dị đoan nên không chịu niệm, người xuất gia cho niệm Phật là việc tất nhiên của mình phải làm, chớ không biết tại sao phải niệm, kẻ cuồng huệ biết có Phật, nhưng lại không khứng niệm, kẻ ngu si không biết Phật nên không niệm. Ðây là đem so sánh, còn có những ngu phu, ngu phụ, nghe nói lý nhơn quả cũng biết niệm Phật, nhưng lại mong cầu được phước báo đời sau, vẫn không thoát khỏi hột giống luân hồi.

Tìm kẻ thật vì đường sanh tử mà niệm Phật trong trăm người họa chăng chỉ có một hai! Nên biết rằng, người đã niệm Phật, tức xứng hợp với lòng từ của Phật, phát thệ nguyện rộng lớn tế độ chúng sanh. Tất cả tội cấu oan khiên thảy đều sám hối. Tất cả những công đức dù nhỏ dù lớn đều đem hồi hướng Tây phương, như thế mới là CHÁNH NHƠN NIỆM PHẬT.

Lời phụ giải: Làm một việc gì đều phải có mục đích và tất nhiên phải có đạt đến kết quả của nó. Một việc niệm Phật, siêu xuất luân hồi, vãng sanh Tịnh độ, với mục đích đã nhắm và với kết quả sẽ đạt thật là cao siêu và thật tế, thời hành nhơn ắt phải rõ thấu và tận dụng tri giác của mình, đâu phải những điều huyễn hoặc, vu vơ hay thiển cận mà khinh hốt.

Nhận thức đúng đắn điểm này thời việc làm ắt không đến đỗi luống. Thiệt lòng niệm Phật cầu thoát sanh tử thời cầu mong phước báo hữu lậu ở thế gian làm gì? Vạn vật vô thường của cõi thế gian nào phải là chỗ gởi thân vĩnh viễn của ta đâu? Nhưng đó chẳng qua vì hoặc nghiệp, phiền não nhiều kiếp sâu dày, mặc dầu cũng có hiểu biết đấy, nhưng lại phải chướng dày huệ mỏng, nên rồi phải tự cam với số phận hẩm hiu. Vậy khi đã rõ thông và phát tâm niệm Phật thì phải hết lòng, hết sức sám hối nguyện tiêu trừ tất cả chướng cấu trần lao để lòng thanh thoát, không còn bị những ảo ảnh gạt lường, mới mong đạt thành sở nguyện.

—————————————–

<!–[if !supportFootnotes]–><!–[endif]–> <!–[if !supportFootnotes]–> [1]<!–[endif]–> Thành khối tức Nhứt Tâm hay Tam Muội đó. Niệm Phật cốt giữ một lòng không tán loạn, không xen tạp, như đường đã thành kẹo.

<!–[if !supportFootnotes]–> [2]<!–[endif]–> Hôn trầm: nặng nề, ngủ gật, làm cho thân không được tự tại, tâm không được sáng suốt.

<!–[if !supportFootnotes]–> [3]<!–[endif]–> Thâu buộc tâm niệm, đừng cho nó chạy theo vọng trần, vọng cảnh tán loạn mất chánh niệm, bấy giờ tinh thần sẽ được sáng suốt.

<!–[if !supportFootnotes]–> [4]<!–[endif]–> Tâm khí: Tâm là tâm niệm, khí là hơi thở. Tâm niệm bị loạn động, hơi thở đứt nối không đều, nên gọi là tâm khí không điều hòa.

<!–[if !supportFootnotes]–> [5]<!–[endif]–> Khí tịnh tâm bình: hơi thở điều hòa, an tịnh, tâm niệm bình thản, thơ thới.

<!–[if !supportFootnotes]–> [6]<!–[endif]–> Thường người ta niệm sáu chữ (lục tự Di Ðà) nhưng suy kỹ thì sáu chữ sẽ khó nhứt tâm và khó thành khối hơn 4 chữ. Ngài Pháp Chiếu Ðại Sư trong Ngũ Hội Niệm Phật cũng chủ trương 4 chữ.

<!–[if !supportFootnotes]–> [7]<!–[endif]–> Hồi quang phản chiếu: Xoay quán trí trở về quán sát nội tâm, không duyên theo ngoại cảnh.

<!–[if !supportFootnotes]–> [8]<!–[endif]–> Niệm đầu: Không phải niệm đầu là lúc đầu khi mới niệm Phật, mà mỗi niệm nối liền nhau, câu niệm Phật trước gối đầu câu niệm Phật sau, không hở không dứt.

<!–[if !supportFootnotes]–> [9]<!–[endif]–> Vô ký là không nhứt định thiện hay ác.

<!–[if !supportFootnotes]–> [10]<!–[endif]–> Ba thân Phật: Pháp thân, Báo thân, Ứng hóa thân.

<!–[if !supportFootnotes]–> [11]<!–[endif]–> Hắc nghiệp: Nghiệp đen, chỉ cho phiền não nghiệp, ác nghiệp.

<!–[if !supportFootnotes]–> [12]<!–[endif]–> Buông bỏ thân tâm: nguyên chữ Hán “thân tâm phóng hạ,” ý nói không còn một chút gì dính măc trong tâm, xả bỏ tất cả, nghĩa như câu “huyền nhai tán thủ” là ở trên gộp đá cao, buông tay rơi xuống vực sâu thẳm, không còn níu nắm đâu nữa cả.

<!–[if !supportFootnotes]–> [13]<!–[endif]–> Pháp vương là vua của các pháp, ý nói đức Phật đã thâm đạt thật tướng các pháp, ở trên sự vậy…

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Nguồn dẫn: quangduc.com

30/06/2009 Posted by | 4) TỊNH ĐỘ TÔNG | Bình luận về bài viết này

CÁCH TU TỊNH ĐỘ

QUY TẮC TU HỌC

Lời khai thị của ẤN QUANG ĐẠI SƯ

Bất luận là người tu tại gia hay xuất gia, cần phải trên kính dưới hòa, nhẫn nhục điều người khác khó nhẫn được, làm những việc mà người khác khó làm được, thay người làm những việc cực nhọc, thành toàn cho người là việc tốt đẹp. Khi tĩnh tọa thường nghĩ đến điều lỗi của mình. Lúc nhàn đàm đừng bàn đến điều sai trái của người. Lúc đi đứng nằm ngồi ăn mặc, từ sáng đến tối từ tối đến sáng, chỉ niệm Phật hiệu không để gián đoạn: hoặc niệm nho nhỏ, hoặc niệm thầm.
Ngoài việc niệm Phật, đừng dấy khởi một niệm nào khác. Nếu khởi vọng niệm, phải tức thời bỏ ngay. Thường có lòng hổ thẹn và tâm sám hối. Nếu đã tu trì, phải tự hiểu là công phu của ta hãy còn nông cạn, chẳng nên tự kiêu căng, khoa trương, chỉ nên chăm sóc việc nhà mình mà đừng nên dính vào việc nhà người. Chỉ nên nhìn đến những hình dạng tốt đẹp mà đừng để mắt tới hình dạng xấu xa bại hoại. Hãy coi mọi người đều là Bồ tát, mà ta chỉ là kẻ phàm phu.
Nếu quả có thể tu hành được như những điều kể trên, thì nhất định được sinh về Tây Phương Cực Lạc Thế Giới.

Cư sĩ Bùi Dư Long dịch

30/06/2009 Posted by | 4) TỊNH ĐỘ TÔNG | Bình luận về bài viết này

THIỀN KẾT HỢP VỚI NIỆM PHẬT

THIỀN KẾT HỢP VỚI NIỆM PHẬT

A. ĐIỀU THÂN ĐÚNG TƯ THẾ
1. Tư Thế:
– Bắt chân kiết già, giữ lưng thẳng, bất động nhưng mềm mại.
– Biết rõ toàn thân nhất là ở vùng bụng dưới (đan điền).
– Toàn thân buông lỏng, mềm mại đến từng thớ thịt từ đầu mặt, vai, lưng, từng ngón tay, từng ngón chân.
* Tránh hai cực đoan:
– Gồng cứng cả người để giữ lưng thẳng (sẽ làm nhức đầu, mệt mỏi, căng thẳng).
– Hoặc tư tế ngồi dễ dãi để lưng khòm cúi (dễ bị hôn trầm, tu lâu nhưng không tiến bộ).
2. Lợi Ích:
– Điều thân đúng tư thế và thuần thục giúp khắc phục những chướng ngại thường mắc phải của người tu như: hôn trầm hoặc nhức đầu, mất ngủ…

B. KẾT HỢP HƠI THỞ VỚI NIỆM PHẬT
1. Cách dụng công:
– Khi điều thân thuần thục sẽ biết được hơi thở đi vào và hơi thở ra một cách tự nhiên.
– Đến lúc này vừa biết rõ toàn thân vừa kết hợp câu niệm Phật với từng hơi thở vào, hơi thở ra một cách thong thả nhẹ nhàng.
– Đến khi tâm an tịnh rồi, chỉ biết rõ hơi thở vào, hơi thở ra, còn câu niệm Phật sẽ buông luôn.
– Ghi nhớ: Hơi thở kết hợp với câu niệm Phật phải tự nhiên nhẹ nhàng không gượng ép.

2. Chú ý:Tuyệt đối tránh các trường hợp:
+ Niệm Phật kết hợp với hơi thở một cách máy móc gò bó như phương pháp hít hơi vào niệm ba chữ: Nam Mô A, thở hơi ra niệm: Di Đà Phật; Hơi thở khi bị khống chế ép buộc theo lối này sẽ phát sinh phản ứng phụ như tức ngực, khó thở, choáng váng, nhức đầu…
+ Hoặc có pháp môn vừa niệm Phật, vừa hít hơi dẫn khí theo vòng chu thiên. Khi tập trung tinh thần để dẫn khí đi, sẽ vô tình làm lực kéo lên đầu gây nghịch khí (tẩu hỏa nhập ma), rối loạn tâm thần, tim mạch…

C. CÔNG ĐỨC – ĐẠO ĐỨC – KHÍ CÔNG LÀ NỀN TẢNG CẦN THIẾT.
1. Công Đức:
– Khi phước mỏng công đức thiếu sẽ phát sinh nhiều chướng ngại về tinh thần lẫn vật chất, rất khó cho việc tiến tu.
– Vừa tu tập thanh lọc nội tâm nhưng phải siêng năng làm phước, sống đời vị tha làm tất cả công đức mang lại an vui hạnh phúc cho con người.
2. Đạo Đức:
– Người thiếu Đạo đức giới hạnh khuyết lỡ tạo nhiều lỗi lầm, cho dù quả báo xấu chưa đến nhưng tâm sẽ phiền động rối loạn bất an và đời sống tu tập bị thoái đọa.
– Vừa siêng năng tu tập vừa kiểm soát nội tâm luôn giữ lòng khiêm hạ thấy mình nhỏ bé trước chư Thánh và mọi người… để tiêu trừ tâm kiêu mạn, luôn hoan hỷ trước thành công của người khác, dứt bỏ tâm ích kỷ, hẹp hòi, hơn thua, đố kỵ, ác độc…
3. Khí Công:
– Một cơ thể bệnh hoạn yếu đuối, bạc nhược sẽ gây trở ngại rất lớn cho việc tu tập.
– Chọn những động tác khí công có hiệu quả, kiên trì tập luyện hàng ngày để giữ ổn định sức khỏe.
– Cần phải tiết chế sự ăn uống, tránh những thức ăn thực phẩm dẫn đến những căn bệnh thời đại như tiểu đường, béo phì, cao huyết áp…

D. LUÔN GIỮ GÌN SỰ ĐOÀN KẾT HÒA HỢP TRONG ĐẠO PHẬT.
– Tất cả pháp môn tu đều là phương tiện và kết quả giải thoát giác ngộ mới là cứu cánh, cho nên các tông phái đều chọn Bát Chánh Đạo là điểm quy đồng chung để xây dựng sự hòa hợp trong đạo Phật.
– Trên bước đường tu tập cần thông tỏ tất cả các pháp môn để tùy duyên hóa độ cho chúng sinh đạt đến mục tiêu chung, tuyệt đối tránh tình trạng ca ngợi tông phái của mình, công kích, chê bai tông phái khác…

KHẨU QUYẾT TU THIỀN
Thiền là điều phục tâm
Nhưng muốn điều phục tâm
Phải điều hòa hơi thở
Muốn điều hòa hơi thở
Phải điều hòa được thân
Cộng với phước vô ngần
Vì vậy lúc ban đầu
Trồng công đức thật sâu
Sống hiền lành chân chánh
Theo Thánh đạo nhiệm mầu
Vào thiền ngồi kiết già
Đúng tư thế Phật Đà
Giữ toàn thân mềm mại
Và bất động sâu xa
Khi vọng tưởng khởi lên
Khiến hiện tại bị quên
Lúc đó nhờ Công Đức
Giúp ta quay lại liền
Rồi trở lại Điều Thân
Xem khắp cả tay chân
Có chỗ nào gồng cứng
Hay nhúc nhích gì chăng
Rồi biết Thân Vô Thường
Ngày nào sẽ lên đường
Rã tan thành cát bụi
Xương thành bột bay luôn
Cứ kiên nhẫn Điều Thân
Không cần phải đi nhanh
Điều Thân thật thuần thục
Đường đạo đã đến gần
Rồi nhìn thấy trong thân
Có hơi thở vào ra
Để giữ gìn mạng sống
Không một phút lìa xa
Có hai điều cực đoan
Khiến hơi thở bất toàn
Một là quên hơi thở
Hai là thở rộn ràng
Quên hơi thở, quên tu
Tâm chìm đắm mịt mù
Vì vậy luôn gắng nhớ
Từng hơi thở nhiệm mầu
Hơi thở vào, biết vào
Hơi thở ra, biết ra
Không cố gắng điều khiển
Theo ý muốn của ta
Có lúc hơi thở nhiều
Có lúc chẳng bao nhiêu
Nhưng chỉ cần biết rõ
Chẳng cần thêm một điều
Hơi thở là của thân
Khi Biết Rõ Toàn Thân
Là biết luôn hơi thở
Không cần phải phân vân
Nhớ thật kỹ một điều
Dù hơi thở thế nào
Cũng không được điều khiển
Chỉ cần biết mà thôi
Biết thật rõ hơi vào
Biết thật rõ hơi ra
Biết toàn thân phía dưới
Tỉnh giác và an hòa
Vẫn giữ thân vững vàng
Bất động mà nhẹ nhàng
Và biết từng hơi thở
Tâm dừng bước lang thang
Nhiều trạng thái của tâm
Vi diệu và lạ lùng
Thay phiên nhau xuất hiện
Sẽ khiến ta hiểu lầm
Thấy tâm thức rỗng không
Lòng thanh thoát vô cùng
Ta sẽ tưởng mình đắc
Một quả Thánh nào chăng
Thật ra, ta hãy còn
Đứng ngoài cửa mõi mòn
Chưa vào được cánh cổng
Của ngôi đền Chí Tôn
Trong ngôi đền thẳm sâu
Có chiếc ghế nhiệm mầu
Tên gọi là Vô Ngã
Chờ đợi ta đã lâu

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

28/10/2008 Posted by | 4) TỊNH ĐỘ TÔNG, 5) THIỀN TÔNG, f) TỊNH ĐỘ HỌC, g) THIỀN HỌC | 1 bình luận

OAI ĐỨC CÂU NIỆM PHẬT

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Người dòng Bà La Môn ở nước Thiên Trúc. Vào thời đại xa xưa, tại nước A Thâu Sa của xứ Thiên Trúc (vì nước Thiên Trúc vào thời cổ có 16 nước lớn) có một người dòng Bà La Môn (không thấy nói tên họ), anh chàng này bẩm tánh chân thật, nhưng ngu si vô trí lại khổ một nổi là tâm nhiễm ái thiên trọng, nên anh đối với vợ yêu thương quá mức, với tình chồng vợ không biết chán nhàm. Trái lại vợ anh chẳng những là người hiền lành, mà lại thông minh lanh lợi.

Cô này sanh trưởng trong một gia đình kính tin Tam Bảo, riêng cô là người chẳng những với ngôi Tam Bảo sùng kính đến mức tối đa, lại rất am tường Phật lý, về việc tu hành thì cô chuyên về Pháp môn Tịnh Độ, trường trai niệm Phật. Cô thuê thợ làm một chiếc trống thuần hoàng kim. Mỗi ngày Cô quy định hai thời khóa niệm Phật khuya và tối, vì trong lúc ban ngày phải bận việc gia đình, trong thời gian này cô niệm Phật cũng chỉ nhiếp tâm thầm niệm mà thôi. Mỗi khi niệm Phật thì cô gõ trống thế cho mõ, như trên đã nói, chồng của cô đã quá đần độn lại quá yêu vợ không rời, nên lúc cô vợ đang cúng đánh trống niệm Phật, mà anh nắm lôi tay cô bảo đi ngủ, cô ôn tồn đáp: “Không được anh ơi! Nếu anh muốn em cùng đi ngủ thì mỗi tối đồng với em đánh trống niệm Phật cho xong mới cùng nhau đi ngủ”. Anh vì thương vợ nên sẳn sàng ưng thuận, có những lúc đang niệm Phật anh ta thúc hối đi ngủ thì cô ấy vẫn từ hòa nói, chưa đủ anh ơi! Niệm thiếu mang tội chết! Từ đây anh dòng Bà La Môn này cùng vợ niệm Phật không sót một đêm, trải qua thời gian ba năm, anh bị trọng bệnh rồi qua đời, nhưng vì tim vẫn nóng, nên không nhập liệm, trải qua năm ngày anh sống lại, bấy giờ anh đối với vợ khóc một cách thảm thiết dường như buồn tủi một việc gì?! Cô Phật tử vợ anh hỏi lý do, anh nói: ”Em ơi! Giờ đây anh không có một niệm muốn gần em nữa! Duy có tâm niệm lo tu là chăm niệm Phật để được về Tây Phương Tịnh Độ mà thôi! Vì sau khi anh chết bị ngục tốt dẫn vào Hoạch Than địa ngục (địa ngục này hành phạt tội nhân bằng cách nấu trong vạc dầu sôi), lúc ấy anh thấy tất cả tội nhân đương bị nấu trong vạc trồi lên chìm xuống, dường như nấu đậu, lại có tội nhân la khóc thảm thiết, trườn qua vành chảo mà muốn chạy ra, bị Ngục tốt dùng gậy đánh đập trúng chảo đồng đang nấu nghe tiếng cảng cảng và nó lại bắt quăng vào chảo, lúc ấy anh vô cùng kinh hồn khiếp vía sợ hãi, bỗng nhớ lại khi cùng em đánh trống vàng niệm Phật, hai tay chắp lại chí thành niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” thì lại chí thành niệm “Nam mô A Di Đà Phật” thì chảo dầu sôi tức khắc biến thành một ao nước mát có hoa sen đầy trong ấy, bao nhiêu tội nhân đều ngồi trên hoa sen, và thấy họ vui tươi không la khóc. Tất cả đều sanh về Tây phương Tịnh Độ. Ngục tốt tức khắc tâu với Minh Vương, Ngài liền đến chỗ chảo dầu sôi đã biến thành ao sen, vui mừng vô hạn, và tức khắc truyền lịnh phóng thích anh về dương thế, lại dạy bảo anh sau khi về dương thế phải siêng niệm Phật, đừng gần vợ nữa. Vì thế, anh giờ đây 100% không muốn gần em. Anh cũng muốn nói cho em được rõ, Minh Vương chẳng những vui vẻ truyền lệnh phóng thích anh về, mà Ngài còn nói:

Trên trời dưới trời

Không ai bằng Phật

Đức từ bi Ngài

Cứu khắp quần sanh

Có những chúng sanh

Tạo nhiều tội ác

Đọa vào địa ngục

Chịu khổ cực hình

Chỉ nghe một câu

A Di Đà Phật

Dầu sôi lửa dữ

Tức khắc biến thành

Tất cả tội nhân

Đều được vãng sanh

Ao nước thanh lương ( mát mẻ)

Tây phương Cực Lạc

Đức từ bi ấy

Hết sức cao cả

Con không thể gì

Dùng lời diễn tả

Chỉ có chí thành

Tánh mạng nương về

Nơi đấng Lưỡng Túc

( Phước đức trí huệ).

Truyện này tôi thành kính y trong bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục thuật lại chữ Việt. Trong bộ sách này ghi lại truyện vãng sanh có mấy ngàn, truyện anh chàng Bà La Môn là một truyện trong ấy (trong truyện này ai là người được vãng sanh? Tức là các tội nhân bị nấu chảo).

Quý vị đọc truyện này có vài điểm nên lưu tâm:

_ Hành động của cô Phật tử (vợ anh Bà La Môn).

_ Niệm Phật đã ba năm mà bị đọa địa ngục.

_ Hành động của cô Phật tử trong truyện ngắn này, chúng ta nên tán thán, vì nếu cô ấy như những người khác, thì có nhiều thất bại.

_ Gia đình không an vui, tại sao vậy? Vì khi cô đương niệm Phật mà bị chồng quấy rầy như vậy, theo như những người phụ nữ khác, sẽ nổi sân si la mắng rằng đồ khốn nạn, người ta đang trong giờ tu niệm mà nắm tay lôi kéo hối thúc đi ngủ. Trong khi ấy anh Bà La Môn chắc 100% không nhịn, vì dù anh là người đần độn vô trí, nhưng vẫn có tâm tự ái, hơn thế nữa là chồng thì bao giờ cũng ở trong thế thắng, nghĩa là người có quyền hơn vợ, đương nhiên anh sẽ chửi mắng và có thể xảy ra việc đánh đập là khác.

_ Không thể an tu. Vì như trên đã nói, thì làm sao an tâm mà tu niệm? Thế là đại sự của mình bị hỏng!

_ Không hướng dẫn chồng vào Phật pháp. Điểm này không cần dài dòng vì giữa hai bên đã bất hòa, đã chạm tự ái, tâm sân đã sùng sục nổi dậy, là vì ái với sân nó đi đôi không rời nhau, niệm đầu vì anh ấy quá yêu vợ và yêu trong trường hợp về nhục dục, mà không như ý thì đương nhiên lửa sân nổi dậy. Sơ lược ba điểm như trên, chúng ta thấy cô Phật tử trong truyện rõ là người khôn ngoan có trí lại gồm hiền từ.

_ Niệm Phật ba n�
�m mà bị đọa. Sự việc này mới nghe qua, ai ai cũng phải có tâm nghi ngờ đối với lời vàng của đức Thế Tôn. Vì trong Kinh Ngài có dạy rõ “Niệm một câu A Di Đà Phật, sẽ tiêu diệt tội trọng trong đường sanh tử 80 ức kiếp”. Chỉ một câu mà còn có hiệu lực dường ấy, tại sao anh Bà La Môn kia mỗi đêm đều cùng vợ niệm Phật suốt 3 năm mà bị đọa? Nam Mô A Di Đà Phật! Xin quý vị bình tâm, tôi sẽ trong Kinh mà lược thích sự nghi ngờ ấy. Chúng ta nên biết tất cả pháp, thì tâm đứng đầu, tâm làm chủ, nếu dùng tâm ấy mà tạo nghiệp thì như bóng theo hình không bao giờ sai chạy. Thế mà anh Bà La Môn niệm Phật, bằng cách đọc Thánh hiệu Phật mà thôi, trong tâm tưởng hoàn toàn không có niệm. Tại sao? Vì dù anh suốt ba năm niệm Phật theo vợ, nhưng trong tâm bao giờ cũng nghĩ được vợ theo ý mình. Chuyện này tôi nói phớt qua, quý vị thừa hiểu nhiều, hơn nữa cũng không nên nói. Có điều chúng ta 100% nên lưu ý là, dù anh Bà La Môn ấy suốt ba năm không có một phút thành tâm niệm Phật, chỉ miệng đọc Thánh hiệu bằng cách bắt buộc theo lời vợ đã hứa (tức là cô Phật tử ấy bảo anh nếu muốn đi ngủ phải cùng em niệm Phật cho đủ), do sự đọc Thánh hiệu bằng cách bắt buộc ba năm, nó huân sâu vào tạng thức, thành hạt giống niệm Phật nằm mãi trong tâm, như hạt kim cương không bao giờ hư hoại, nên khi gặp duyên thì hạt giống sẳn có ấy nó phát ra rất mạnh mẽ, theo Duy Thức Học của Phật dạy gọi là chủng tử khởi hiện hành. Do vậy nên anh Bà La Môn khi bị ngục tốt dẫn vào ngục nước dầu sôi, thấy bao tội nhân đang bị hành hình đã vô cùng khiếp sợ, lại nghe tiếng đánh đập tội nhân cây côn trúng vào chảo kêu lản cảng thì trong tâm thức anh tức khắc nhớ lại tiếng gõ trống vàng niệm Phật với vợ khi ở dương thế, liền thành kính chấp hai tay lại mà niệm Nam Mô A Di Dà Phật thật lớn! Kính thưa quý vị, với câu niệm Phật của anh Bà La Môn lúc này có công năng tiêu tội trọng vô lượng vô biên kiếp chứ không phải chỉ trong 80 ức kiếp, vì câu niệm Phật lúc này của anh chẳng những chí thành mà tất cả tâm lực đều dồn hết vào đó, nên mới được kết quả vĩ đại như vậy. Ví dụ cho dễ hiểu, như nhà tối vạn vạn năm, mà đem ngọn đèn pha soi vào, thì tất cả sự tối tăm đều tan tức khắc. Vì lý do này, mà chảo dầu sôi đang sôi sùng sục, tức khắc biến thành ao nước mát mẻ đầy cả hoa sen, bao nhiêu tội nhân đều ngồi trên ấy.

Ở đây chúng ta sẽ thấy rõ, cái công đức niệm danh hiệu Từ phụ A Di Đà của anh Bà La Môn không mất cũng vì vậy mà trong Kinh Phật dạy niệm Phật dù không chí thành cũng là nhân xa sẽ được giải thoát trong vô lượng kiếp về sau. Nói đến đây thuật giả nhớ lại, hay dùng bánh trái dụ trẻ con niệm Phật là chính ý ấy vậy. Còn việc tại sao do một câu niệm Phật của anh Bà La Môn mà tất cả tội nhân được ảnh hưởng lợi ích vĩ đại như vậy, điều ấy tôi xin dẫn một đoạn trong kinh Pháp Hoa ở Phẩm Phổ Môn quý vị sẽ rõ: Trăm ngàn vạn ức người, vì kiếm bạc, vàng, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu, và những thứ quý báu cùng loại, nên ra biển cả; giả sử bị trận gió lớn trong bầu trời u ám thổi bạt thuyền tàu sa vào đảo quốc La Sát, trong những người ấy, nếu chỉ có một người trì niệm danh hiệu Quán Âm Đại Sĩ, thì những người kia cũng vẫn thoát được cái họa La Sát.

Tiếp theo thuật giả thành kính y trong các Kinh. Kinh địa ngục, kinh Lâu Thán, Kinh A Hàm, Chánh Pháp Niệm Xứ, trang Thung Lục Bộ Sách lược thuật về nguyên nhân vì sao vua Diêm Vương tức trong truyện gọi là Minh Vương. Khi thấy tội nhân vạc dầu sôi biến thành ao nước mát và có nhiều hoa sen tội nhân ngồi trên đó. Ngài vui mừng đến tột độ tức khắc truyền lệnh phóng thích người Bà La Môn và cung kính thuyết kệ diễn tả đức từ bi cứu khổ ban vui của Đức Từ Phụ Di Đà. Vì các Diêm Vương âm phủ đối với tất cả tội nhân quý Ngài đều có từ tâm với họ nên mỗi khi Ngục tốt bắt người dẫn đến liền truyền lệnh bảo Tàu quân đem bộ sổ ra xem, căn cứ theo lời khai của mỗi tội nhân phù hợp với trong ấy, gặp những người nào khi còn ở trên dương thế tu nhiều phước đức nhất là có tâm tin kính Tam Bảo ăn chay niệm Phật thì các Ngài vui mừng vô cùng. Trái lại gặp những tội nhân tạo nhiều tội ác thì các Ngài quở trách, nơi đây thuật giả xin dẫn nguyên văn chính cú của vua Diêm Vương đối với tội nhân quở trách như sau:

“Các ngươi may mắn.

Đã được thân người.

Mà chẳng lo tu.

Khác nào như người.

Đã đến núi báu (núi có vàng ngọc).

Mà về tay không.

Hôm nay đến đây.

Phải chịu cực hình

Là do các ngươi.

Tạo nhiều tội ác

Tự mình tạo tội

Thì tự thọ khổ

Đâu có người nào

Đem khổ đến cho

Giờ đây các ngươi

Kêu la than khóc

Mong cầu việc gì!

Ta đâu cứu được

Ta cũng không thể

Chịu thay các ngươi!”

Như trên là nói qua Diêm Vương rất trọng Phật Pháp và rất thương kính người tu hành, mà nhất là ăn chay niệm Phật siêng làm các việc lành, lánh xa tất cả điều ác, việc ấy cứ xem trong ba câu chuyện ngắn Thuật giả dẫn trong Long Thơ Tịnh Độ sau đây thì rõ._ Phật tử Phòng Chữ Triều nhà Đường ở Trung Hoa, có một Phật tử tên Trần Chữ. Người này thành kính Tam Bảo, tu hành rất tinh tấn. Một hôm không hề bệnh hoạn gì bổng nhiên bị bạo tử, xuống Minh phủ yết kiến Diêm Vương. Diêm Vương tiếp đãi rất sùng hậu. Ngài phán rằng, căn cứ trong bộ sổ ghi tội phước thì Trẫm thấy khanh có một việc công đức rất lớn, là khuyên một người cao niên niệm Phật. Người ấy đã vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, khanh nương nhờ công đức ấy cũng chắc chắn được vãng sanh. Nên Trẫm mời khanh đến đây để được gặp nhau lần cuối cùng, và cũng có vài lời tán thán công đức vĩ đại ấy, vì khanh đã làm cho một người sẽ thành Phật, độ vô lượng hằng sa chúng sanh. Phòng Chữ sau khi nghe Diêm Vương ân cần tán dương công đức mình, anh nói một cách quả quyết rằng, kính tâu Diêm Chúa, con chân thành vạn tạ ơn Ngài đã chiếu cố gọi con đến đây, và có những lời dạy bảo quý hóa ấy. Con vô cùng cảm kích! Nhưng tâu Diêm Chúa, trước kia con có phát hai điều thiện nguyện: Một là trì tụng một vạn quyển Kinh Kim Cang, hai là đi Ngũ Đài Sơn chiêm bái Đức Đại Bi Quán Âm Đại Sĩ, vì vậy nên con chưa muốn vãng sanh C�
�c Lạc trong lúc này. Đức Diêm Vương phán rất quý hóa! Nhưng khanh nên biết với hai thiện nguyện ấy hoàn toàn không bằng sớm được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. Vì được về cõi nước của Đức A Di Đà, chẳng những khỏi hẳn tất cả khổ thống trong sanh tử, mà sự tu hành đủ thắng duyên hơn ở cõi Ta Bà đến vạn ức lần. Hơn nữa, được diện kiến Đức Giáo Chủ cõi Cực Lạc, và hai Đại Thánh Quán Âm, Đại Thế Chí luôn hầu cạnh bên. Lúc bấy giờ khanh chẳng những được yết kiến lễ bái Phật A Di Đà mà lại được lễ bái Quán Âm, Đại Thế Chí lại được làm bạn với chư Thượng Thiện Nhân ở Lạc Bang. Nếu khanh ở lại cõi này đi chiêm bái, chẳng qua chỉ là Thánh tích của Quán Âm Đại Sĩ mà thôi. Những lời trên vừa tỏ bày và khuyến tấn đối với khanh đều là y theo Thánh giáo chứ không phải từ nơi ý kiến riêng của Trẫm, mong khanh nên nghĩ kỹ. Diêm Vương đã cạn lời huấn dụ như vậy mà ông cũng không vâng theo, nên Ngài cũng tùy thuận mà bảo Ngục tốt dẫn trở về dương thế.

Đọc truyện này chúng ta thấy rõ khuyến người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc, lại cảm động chốn u minh được Diêm Vương kính phục. Thế nên Đức Đại Từ Bồ Tát làm kệ thuyết minh về công đức khuyên người tu pháp môn niệm Phật như sau:

Nếu ai có thể

Khuyên được hai người

Tu hành niệm Phật

Như thế tức là

Bằng mình tự tu

Rất là tinh tấn

Nếu khuyên cho được

Mười người trở lên

Thì phước đức ấy

Vô biên vô lượng

Nếu mà khuyên được

Trăm người ngàn người

Làm được như vậy

Thật là Bồ Tát

Lại tiến lên thêm

Cho đến số vạn

Như vậy tức là

Phật A Di Đà.

_ Vua Diêm Vương khuyên bà lão tuổi đã 70 niệm Phật, ở tại xã Châu Lâm, huyện Kim Đàn, xứ Trân Giang. Bà này chết xuống âm phủ, nhưng chưa hết số phải trở về lại nhân gian. Trước khi bái biệt Diêm Vương để trở về chổ cũ, Diêm Vương khuyên bà lão: ” Bà đã cao niên rồi, khi trở về dương thế lo tu phước đức sẽ được sanh đến cảnh giới an vui . Ngài lại hỏi bà niệm Kinh được không? Bà đáp: Thưa Đại Vương! Con không biết chữ tụng không được. Diêm Vương bảo không sao! Bà tụng kinh không được, chỉ thành tâm niệm Phật A Di Đà cho nhiều, đến kỳ mãn số sẽ về Tây phương Cực Lạc, không còn trở lại chốn này. Sau khi bà lão sống lại, bà thường nói với những người quen biết rằng: Tôi từ nào vô phước không ai chỉ dạy tu hành tụng kinh niệm Phật. Hôm nay nhân chết xuống âm phủ, vua Diêm Vương dạy tôi niệm Phật, do đó tôi biết đạo Phật không gì hơn. Đức Diêm Vương mà còn khuyên tôi niệm Phật, thì đâu nghi ngờ gì nữa.Từ nay tôi nguyện gác bỏ tất cả� mọi việc, đói no không quản đến, con cháu nó có thương cho bữa đói bửa no gì cũng được. Bà từ đấy chuyên tâm niệm Phật, lại sống lâu 120 tuổi mới mãn phần. Khi bà sắp qua đời không bệnh khổ gì lắm, chỉ mệt không đi đứng được nhiều như ngày thường, rồi niệm Phật mà thoát hóa. Cứ theo truyện này thì thấy có hai điều đặc biệt. Một là bà lão chắc chắn được vãng sanh vì bà niệm Phật không bê trễ, chẳng những từ ngày xuống âm phủ rồi về nhân gian, mà lúc lâm chung chánh niệm hiện tiền. Hai là do niệm Phật mà thọ số rất cao, lại không bệnh khổ.

_ Thấy người sát sanh niệm Phật được phước.

Trong bộ Quán Âm Linh Cảm Ký thuyết minh Diêm Vương khuyên người niệm Phật như sau: Ở tại Nhiêu Châu (Trung Quốc) có người tên Trịnh Lân coi về việc trong quân đội, chết xuống Âm phủ, nhân vì bắt lầm nên được thả về dương thế( giống với truyện hai trên). Trước khi bái biệt Diêm Vương, Ngài có mấy lời khuyên nhắc Trịnh Lân rằng: Anh về dương thế gắng sức làm lành, kiếp người quá ngắn ngủi như bóng câu( ngựa) qua kẽ hở, như đèn leo lét giữa gió, như sương mai đầu ngọn cỏ..

Những việc lành thì có vô lượng, mà trong ấy công đức niệm Phật là lớn nhất. Vậy Trẫm khuyên anh cố gắng niệm Phật cho nhiều, khi tận số sanh được Cực Lạc không còn trở lại chốn Diêm Đài, lại bất luận lúc nào anh thấy người sát sanh thì anh chí thành niệm A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát cầu nguyện cho chúng sanh bị giết sanh về Cực Lạc, dù chúng nó không được sanh Cực Lạc, thì cũng được thác sanh cảnh giới lành, anh được phước rất lớn. Căn cứ theo truyện này thì thấy rõ niệm Phật có ba điều lợi lớn: Một là đem công đức ấy tiến bạt cho tiên vong, hai là được phước, ba là được vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ.

Giờ đây xin nói qua mấy ông chủ ngục và mấy chú A bàn đối với tội nhân thôi khỏi nói, vì mấy ổng họ ghét tội nhân hơn ghét kẻ oan gia, cừu thù, cọp dữ, rắn độc và xem rẻ như thú vật. Họ đã hành hạ chửi mắng đánh đập một cách tàn nhẫn, vậy mà họ không vừa lòng. Họ muốn làm sao cho các tội nhân bị đau khổ cho thật dữ, không một phút một giây được yên thì họ mới hả dạ. Thật không có chút từ tâm, thế nên trong văn cảnh thế nói: “Tàu quan bảo án một nhân tình, Ngục tốt trì xoa vô tiếu diện..” ( Tàu quan xử thét la chẳng vị, Ngục tốt hờn tay chùy tay xoa) có người thấy vậy mới hỏi mấy ổng rằng: Tất cả tội nhân nơi đây cùng mấy ông đồng là chúng sanh, tại sao quá nhẫn tâm tay đánh miệng chửi mà chưa đã giận hết tức là nguyên nhân nào? Mấy ổng đáp: “Ông trách chúng tôi cũng đúng, nhưng nếu mấy ông ấy mà ở vào trong hoàn cảnh như chúng tôi, thì mấy ông cũng vậy. Vì tất cả tội nhân họ đến đây chịu cực hình, trong lúc họ còn trên dương thế toàn là những người có thể tu tập pháp lành, là vì được thân người yên ổn, dù trong ấy cũng có sai khác nhau rất nhiều, là nghèo giàu, khổ vui, nhưng không có một phần nào như chốn hắc ám khủng khiếp này! Thế mà nó không có một chút thiện niệm, đừng nói là làm lành. Chúng nó bất hiếu với cha mẹ ông bà quyến thuộc, hủy báng Tam Bảo, không kính trọng Thánh Hiền, mạ nhục lục thân quyến thuộc. Với bậc Sư Trưởng thì họ ngạo mạn khinh chê, với tất cả người thì xảo trá quỷ quyệt gian tham lường gạt tìm đủ mưu mô hãm hại họ, miệng thì nói lời thô ác, nói lưỡi đôi điều, làm ly gián quyến thuộc của người, nói dối trá, nói thêu dệt. Tâm thì tham lam keo kiết chỉ muốn cho mình vàng đầy rương, bạc đầy tủ, lúa đầy kho, thấy người đói thiếu kh
ông lòi một xu, dù họ lâm vào tình trạng đến chết cũng mặc kệ, nhưng đây là việc thường. Còn có những kẻ tàn ác hơn nữa, giết người cướp của, sát hại thú cầm, trên không gian thì dùng lưới rập dùng súng ná, đất liền thì gài bẫy đào hầm, dưới nước thì chài lưới lờ dẹp đó đăn.. cho đến phá làng phá xóm đốt nhà cửa lương dân, hãm hiếp vợ con người làm cho mất tiết mất trinh, buông lung kết án gây thù với người. Chúng tôi chỉ nói sơ lược như vậy, nếu nói cho đủ thì không biết bao giờ cho cùng tận, những tội ác của những kẻ đã đến đây!Ông có biết không? Trong những giờ phút mà các tội nhân được thoát khỏi ngục hình, trên thì Đức Diêm Chúa, dưới thì chúng tôi vui mừng khôn xiết. Nên mỗi lần tội nhân được ra khỏi ngục, Diêm Vương Ngài đinh ninh dạy bảo khuyên răn một cách thống thiết rằng: Quý tội nhân! Từ ngày quý vị đến đây thọ tội, lòng Trẫm cũng buồn đau lắm, nhưng có biết làm sao! Vì quý vị tự tạo tội thì phải chịu khổ quả, không một ai thay cho, dù người chí thân như cha mẹ, anh em, chồng vợ.. Vậy hôm nay Trẫm xin nhắc quý vị luôn nhớ sự kịch khổ trong đây, thật không thể gì diễn tả! Trong thời gian qua quý vị đã nếm đủ rồi. Vậy trong giờ phút này, Trẫm mong quý vị ráng nhớ, đã ra được rồi đừng trở lại!!! Trẫm mong quý vị đừng tạo tội ác nữa nghe chưa?!

Thế mà những tội nhân này, với lời Diêm Chúa khuyên răn dạy bảo, chúng vẫn như nước chảy lá môn, như đàn khảy tai trâu, không một niệm chừa bỏ. Mới ra khỏi chốn cực hình ngày này, chốc lát vẫn lại vào. Chúng sanh trong cảnh luân hồi thọ khổ xem như nhà ở của mình, mê muội không chút ngao ngán, không sợ đau khổ. Làm cho chúng tôi khổ cực vì họ, bởi ngày đêm đánh đập hét la hao hơi rát cổ, thân thể mệt mỏi, gân xương đau nhức. Việc này không phải một, hai ngày, mà phải trải qua kiếp này đến kiếp nọ. Vì duyên cớ ấy, ông bảo chúng tôi đối với tội nhân phải có từ tâm, sự thật không thể khởi từ tâm với chúng nó được mà trái lại chúng tôi còn muốn cho chúng nó đau khổ, càng thêm đau khổ, đau khổ cho đến mức tận cùng không thể chịu nổi. Vì chúng tôi có ác ý như vậy là mong tội nhân biết khổ, đau biết hổ thẹn, biết chán ngán đừng trở lại nữa! Nhưng mà chúng tôi thấy vô số tội nhân không một niệm chán khổ, không chịu tu thiện cầu về Niết Bàn, không chịu niệm Phật cầu sanh Cực Lạc. Với lờ�i Phật dạy, họ bỏ ngoài tai. Các tội nhân đã như vậy, thật như vật vô tri thì làm sao bảo chúng tôi khởi từ niệm với họ cho được?!

Ghi chú số (1)

Mấy ông A-bàn nói tội nhân dưới địa ngục ngày hôm nay ra khỏi, chốc lát, lại rơi vào, là một sự thật 100% chứ không phải vì giận ghét mà nói như vậy. Xin quý vị lưu ý Thuật giả sẽ nói rõ điều này, vì một ngày đêm dưới địa ngục lâu dài ngoài sức nghĩ tưởng của chúng ta. Như trong kinh luận thường nói, ngày đêm ở cõi Trời (ở đây Thuật giả dẫn các cõi Trời ở Dục giới rất lâu đối với ngày đêm ở nhân gian. Vì ở cõi Trời Tứ Thiên Vương một ngày đêm bằng ở nhân gian 50 năm. Cho đến một ngày đêm ở cõi Trời thứ 6 là Tha Hóa Tự Tại bằng 1.600 năm ở nhân gian. Thế là chúng ta thấy hai nơi nhân gian và Thiên Thượng đã khác nhau quá nhiều rồi. Giờ đây Thuật giả y theo kinh Quán Phật Tam Muội thì, một ngày đêm ở địa ngục A Tỳ bằng ở nhân gian là 60 tiểu kiếp. Mà một tiểu kiếp ở nhân gian là 1680 vạn năm (16.800.000 năm) mà tội nhân nơi đây (ngục A Tỳ) đời sống của họ trọn một đại kiếp. Niên số của một đại kiếp ở nhân gian là 1.344.000.000 (một tỷ ba trăm bốn mươi bốn triệu năm). Có điều nên lưu ý là, thọ số của tội nhân ở ngục A Tỳ một đại kiếp tức là tính theo đại kiếp dưới địa ngục không phải ở nhân gian. Vì nếu tính theo nhân gian thì một ngày đêm trong địa ngục A Tỳ đã 3/4 của một đại kiếp. Vì một đại kiếp là 80 tiểu kiếp. Nói cho rõ thêm thì, một ngày đêm trong địa ngục A Tỳ là 60 tiểu kiếp, tức là đã trãi qua 3/4 của một đại kiếp ở nhân gian. Một đại kiếp là 80 tiểu kiếp. Về con số của đại kiếp hay tiểu kiếp ở nhân gian hay âm phủ đồng nhau. Nghĩa là một đại kiếp thì 80 tiểu kiếp, nhưng chỉ khác nhau ở điểm ngày dưới địa ngục A Tỳ, khác với nhân gian, như trên đã nói: Một ngày đêm ở ngục A Tỳ là 60 tiểu kiếp ở nhân gian.

Thuật giả nói đi nói lại là vì sợ quý vị không lưu tâm đến điểm này thành, sai chi hào ly, thất chi thiên lý, hay tục ngữ có câu “Sai một con toán thì bán cái nhà”.Nam Mô A Di Đà Phật.

Kính thưa quý vị! Mỗi khi Thuật giả nhớ đến việc này, trong tâm cảm thấy kinh hoàng khủng khiếp, rởn óc cả người, muốn nhịn ăn bỏ ngủ để chuyên tâm niệm Phật cho kịp. Vì nếu lần lựa qua ngày mà lọt vào trong khám lớn ATỳ thì vạn vạn lần nguy to. Biết như vậy mà không thực hành được cũng là một điều đại tàm quý đáng buồn, đáng trách. Tại sao các vị Diêm Vương đối với tội nhân có tâm đại từ như mẹ hiền đối với con thơ? Các Ngài thốt ra những lời khuyên dạy tội nhân bằng một màu sắc từ bi đáng ái kính như vậy. Vì mười vị Diêm Vương trong mười điện ( mười điện thế gian gọi là 10 cửa ngục) toàn là chư Phật Bồ Tát hóa hiện không phải phàm phu. Sau đây xin nêu danh hiệu của mười vị Diêm Vương trong mười điện, đồng thời cũng nêu rõ Thánh hiệu của chư Phật Bồ Tát thị hiện làm mười vị Diêm Vương hóa độ tội nhân trong địa ngục, để quý vị càng rõ đức Diêm Chúa khi thấy các tội nhân đang bị khổ não cực hình trong chảo dầu sôi, mà nghe cảm Thánh hiệu của Đức A Di Đà Như Lai Giáo Chủ Tây Phương Cực Lạc liền biến thành ao hoa sen, tất cả tội nhân đều an tọa trên đó. Ngài mừng đến cực độ lập tức phóng thích anh chàng Bà La Môn và khuyên anh về trần gian lo tu niệm, lại dùng kệ tán dương đức từ bi cao cả có một không hai của đức Từ Phụ A Di Đà.

Quý vị A Bàn họ nói tội nhân ra khỏi địa ngục chốc lát lại vào. Thuật giả xin tạm dùng một việc khác làm ví dụ để quý vị dễ hiểu. Mỗi ngày lúc sáng điểm tâm, trước khi đi làm, quý vị bảo cháu bé năm tuổi ra trước cửa ngõ mua cho má một ly cà phê và nửa ổ bánh mì đem vào cho mau, theo Thuật giả nghĩ thời gian này có thể lâu hơn thời gian của mấy ông A Bàn nói về sự ra vào của tội nhân ở địa ngục.

Đây là danh hiệu của mười vị Diêm Vương trong mười điện ở Minh Đồ.

Đệ nhất điện – Tần Quảng Minh Vương

Đệ nhị điện _ Sơ Giang Minh Vương

Đệ tam điện _ Tống Đế Min
h Vương

Đệ tứ điện _ Ngũ Quan Minh Vương

Đệ ngũ điện _ Diêm La Minh Vương

Đệ lục điện _ Biến Thành Minh Vương

Đệ thất điện _ Thái Sơn Phủ Quân Minh Vương

Đệ bát điện _ Bình Đẳng Minh Vương

Đệ cửu điện _ Đô Thị Minh Vương

Đệ thập điện _ Chuyển Luân Minh Vương

Tiếp theo đây nêu rõ Thánh hiệu của chư Phật Bồ Tát thị hiện làm Diêm Vương để lợi ích chúng sanh ở Minh Giới.

_ Bất Động Như Lai: Đức Như Lai này khi ở Minh Đồ thì thị hiện làm Tần Quảng Minh Vương, chủ coi về lễ cúng dường tuần thất thứ nhất các vong linh.

_ Thích Ca Như Lai: Ở Minh Giới thị hiện làm Sơ Giang Minh Vương, chủ coi về lễ cúng dường tuần thất thứ hai cho các vong linh.

_ Văn Thù Đại Sĩ: Vị đại sĩ này thị hiện làm Tống Đế Minh Vương ở Minh Giới, để coi về lễ cúng tuần thất thứ ba các vong linh.

_ Phổ Hiền Đại Sĩ: Vị Đại Sĩ này thị hiện làm Ngũ Quan Minh Vương ở địa ngục, chủ coi về lễ cúng thất thứ tư cho các vong linh.

_ Địa Tạng Đại Sĩ: Vị Đại sĩ này khi ở trong địa ngục thị hiện làm Diêm Ma (cũng gọi là Diêm La) Minh Vương, chủ coi về lễ cúng dường tuần thất thứ năm cho các vong linh.

_ Di Lặc Đại Sĩ: Vị Đại Sĩ này biểu hiện thân hình vào trong địa ngục làm Biến Thành Diêm Vương, chủ coi về lễ cúng tuần thất thứ sáu cho chư vong linh.

_ Dược Sư Như Lai: Đức Như Lai này biểu hiện thân hình vào Minh Giới làm Thái Sơn Phủ Quân Minh Vương, chủ coi về lễ cúng tuần thất thứ bảy cho các vong linh.

_ Quán Âm Đại Sỹ: Vị Đại sĩ này biểu hiện thân hình vào Minh Đồ làm Bình Đẳng Minh Vương, chủ coi về tuần bách nhật cho các vong linh.

_ Đại Thế Chí Đại Sĩ: Vị Đại Sĩ này biểu hiện thân hình vào Minh Đồ làm Đô Thị Minh Vương, chủ coi về lễ cúng tuần tiểu tường cho các vong linh.

_ A Di Đà Như Lai: Vị Như Lai này biểu hiện thân hình vào chốn địa ngục làm Ngũ Đạo Chuyển Luân Minh Vương để coi về lễ cúng đại tường cho các vong linh.

Như trên là thành kính y trong Kinh Thập Vương nêu Thánh hiệu Chư Phật Bồ Tát biểu hiện thân hình làm mười vị Diêm Vương để tế độ chúng sanh trong Minh đồ. Đây chỉ lược nêu danh mà không giải thích, vì quá rộng, lại ở đây cũng không phải cần điều ấy, mà chỉ cần rõ 10 vị Diêm Vương là chư Phật Bồ Tát thương xót chúng sanh trong chốn u đồ mà thị hiện thân hình làm Diêm Vương để tế độ đó thôi. Có một điều quan trọng nhất là chúng ta đã có thân này, thì không ai mà lại chẳng có cha mẹ ông bà quyến thuộc, thế nên trong những lễ thất tuần.. phải hết lòng thương nhớ thâm ân của cha mẹ ông bà mà lo tạo phước hồi hướng cầu nguyện. Nếu thật hành như vậy thì chẳng những trọn hiếu đạo cá nhân mình, mà chư Phật Bồ Tát cũng rất hoan hỉ.

Đồ biểu ghi về điểm đồng dị ngày, tháng, năm, tiểu kiếp, trung kiếp, đại kiếp của nhân gian và địa ngục A Tỳ.

_ Nhân gian và địa ngục A Tỳ. (1)

1 tháng = 30 ngày

1 năm = 12 tháng

1 tiểu kiếp = 16.800.000 năm

1 trung kiếp = 336.000.000 năm

1 đại kiếp = 1.344.000.000 năm

_ Ngày, tháng, năm, tiểu, trung, đại kiếp của địa ngục A Tỳ. (2)

1 ngày = 60 tiểu kiếp của nhân gian

1 tháng = 1.800 tiểu kiếp của nhân gian

1 năm = 21.600 tiểu kiếp của nhân gian

1 tiểu kiếp =

1 trung kiếp = đại kiếp =

Biểu số (1) là nói về điểm tương đồng nhân gian và địa ngục A Tỳ. Nghĩa là ở nhân gian 1 tháng là 30 ngày, 1 năm là 12 tháng cho đến một đại kiếp là 1.344.000.000 năm. Ở địa ngục A Tỳ cũng vậy, hoàn toàn không khác nhau ( trong đây riêng nói địa ngục A Tỳ, các địa ngục khác cũng vậy, nghĩa là 1 tháng là 30 ngày).

Biểu số (2) nói về điểm tương dị của nhân gian và địa ngục A Tỳ nghĩa là:

1 ngày đêm ở địa ngục A Tỳ bằng 60 tiểu kiếp ở nhân gian,

1 tháng dưới địa ngục A Tỳ bằng 1.800 tiểu kiếp ở nhân gian,

1 năm ở dưới địa ngục A Tỳ bằng 21.600 tiểu kiếp ở nhân gian.

Đây là chỉ lấy 1 ngày, 1 tháng và 1 năm dưới địa ngục A Tỳ để so sánh sự sai khác với nhân gian. Còn tiểu, trung, đại kiếp con số quá lớn, Thuật giả kém về toán học, nên không tính được. Vậy xin quý vị nương theo một ngày, 1 tháng và 1 năm để tính tiểu, trung đại kiếp nhơn lên cho biết sự sai khác của hai nơi nhân gian và địa ngục A Tỳ.

Nam Mô A Di Đà Phật

Kính thưa quý vị! Thuật giả nhận thấy 27 trang giấy này có nhiều khuyết điểm vậy xin quý vị khi đọc cảm thông cho! Vì thâm ý của Thuật giả chỉ mong đem lại sự lợi ích về việc tu hành được thoát khổ sanh tử, vãng sanh Cực Lạc là điểm chính.

Những trang giấy này Thuật giả chẳng những không viết được một chữ, mà chỉ tự nói ra và nhờ một Phật tử viết lại để nghe qua vậy thôi. Thế nên rất nhiều khuyết điểm. Rất mong thông cảm hỉ xả cho!

Về Thuyết So Sánh Công Đức Niệm Phật của Tuân Thức Đại Sư

Trong kinh Đại Bát Niết Bàn thuyết minh rằng: Giả sử có thiện nam tín nữ nào phát nguyện trong thời gian một tháng, thường đem y phục và các thức ăn uống cúng dường cho tất cả chúng sanh ( tất cả chúng sanh không phải riêng chỉ cho nhân loại mà toàn thể chúng sanh trong lục đạo đều gồm trong ấy, vả lại không phải riêng chỉ cho chúng sanh trong một quốc độ nào, lại riêng nói một đạo trong sáu đạo là bàng sanh tức là súc sanh, súc sanh do người nuôi mà mệnh danh như thế, bàng sanh thì đúng hơn vì hình nó đi ngang đội trời mà đi, súc sanh chỉ số ít mà thôi. Như trong kinh Lâu Thán, kinh Chánh Pháp Niệm Xứ thì bàng sanh chủng loại sai khác không đồng nhau gồm có 40 ức, lại còn có các vi tế côn trùng bò bay cựa động số ấy nhiều không thể nói được, đều thuộc trong bàng sanh, lớn nhất là chim đại bàng, kim sí điểu và cá ma kiệt, cho đến nhỏ nhất như con kiến riện, con mạt cũng nhiếp trong bàng sanh. Lại còn những thứ nhục nhãn không thấy như vi trùng trong không khí, vi trùng trong nước, thiên nhãn mới thấy? Tại sao chỉ nói đến bàng sanh đạo? Vì chúng sanh các đạo khác chư Thiên, quỷ, thần v.v.. nhục nhãn nhân loại không thấy được) công đức này rất lớn, nhưng không bằng có thiện nam tín nữ nào, phát tâm chí thành niệm Phật trong một niệm. Chúng ta đem công đức bố thí rất lớn nói trên mà so sánh với công đức niệm Phật trong một niệm, thì công đức bố thí chỉ bằng một phần trong 16 phần mà thôi
.

Giả sử có thiện nam tín nữ nào dùng vàng đúc hình người rồi dùng xe ngựa vận tải đem đi bố thí, cho đến dùng các vật quý báu khác mỗi thứ đủ số 100, cũng đem toàn bộ đi bố thí, công đức này rất lớn, nhưng không bằng công đức của thiện nam tín nữ nào phát tâm dở chân đi một bước đến chỗ Phật.

Giả sử có thiện nam tín nữ đem xe voi lớn vận tải hết tất cả trân bảotrong nước Đại Tần, và dùng chuỗi anh lạc đủ số 100 đem đi bố thí, cũng không bằng có thiện nam tín nữ phát tâm cất chân đi một bước đến chỗ Phật.

Nếu có thiện nam tín nữ dùng tứ sự ( tứ sự: 1- Thức ăn; 2- Y phục; 3- Đồ nằm; 4- Thuốc thang) cúng dường cho tất cả chúng sanh trong tam Thiên đại Thiên thế giới, công đức này rất nhiều, nhưng vẫn không bằng có thiện nam tín nữ phát tâm cất chân đi một bước đến chỗ Phật, công đức của các tiện nam tín nữ đó vô lượng vô biên không thể dùng toán số ví dụ mà xác định được.

( Như trên là thuộc về Kinh Văn. Sau đây là lời phổ khuyến của Đại Sư. Tôi (lời của Đại Sư) thành kính khắp khuyên tất cả thiện nam tín nữ Phật tử tại gia có tín tâm đối với Tam Bảo ( trong đây Đại Sư chỉ khuyên nhắc hàng Phật tử tại gia vì hàng Phật tử xuất gia với việc đi đến Phật đường là việc hằng ngày) mỗi ngày trong lúc sớm mai mặc y phục chỉnh tề, giữ tâm thanh tịnh, đi đến Phật đường ( tức là chỗ thờ Phật), một lòng thành kính chiêm ngưỡng lễ bái Phật như thấy tôn dung của Phật sống không khác. (Liên tông Thập Tam Tổ thường dạy, khi lễ Phật phải một lòng thành kính xem Phật Bồ Tát mình đang đảnh lễ như Phật Bồ Tát thật, đừng nghĩ là tượng vàng, đồng, giấy v.v.. tức là tương tự với lời dạy của Tuân Thức Đại Sư) đừng cho một ngày nào thiếu sót. Nếu vì quá bận rộn về việc công hay việc tư cũng cần phải lưu tâm tạm vào Phật đường, đốt hương cúng dường, hai tay chấp lại chí thành cung kính xá Phật ba xá, đoạn lui ra đi làm việc. Nếu những vị có thời giờ rãnh rỗi, thì không hạn định trong lúc sớm mai, mà mai chiều hay tất cả thời đều có thể đến Phật đường làm các Phật sự như lạy Phật, tụng kinh, sám hối cho đến cúng dường hoa hương, hay lau chùi bàn Phật, tượng Phật v.v.. Quý vị nên nhận chân thân người khó được, Phật Pháp khó gặp, cơ hội thuận tiện lại còn khó hơn, vì sự vô thường không nhất định, giờ trước còn khỏe mạnh, giờ sau chẳng biết thế nào.. Xin quý vị xem kỹ đoạn Kinh Văn trên nói về công đức niệm Phật trong một niệm, và dở chân đi một bước đến Phật đường còn thù thắng đến dường ấy, huống chi mỗi niệm mỗi niệm đều niệm Phật, mỗi bước mỗi bước đi đến chỗ Phật, hay là nhiễu Phật niệm Phật, thì tội chướng được tiêu diệt, công đức được tăng trưởng thật không thể dùng tâm suy nghĩ hay lời luận bàn cho cùng được.

HT THÍCH THIỆN HOA

Nguồn http://phatgiaovnn.com

25/10/2008 Posted by | 4) TỊNH ĐỘ TÔNG, f) TỊNH ĐỘ HỌC | Bình luận về bài viết này

TRÌ CHÚ ĐẠI BI ĐÚNG

NAM MÔ ĐẠI TỪ ĐẠI BI
THIÊN THỦ THIÊN NHÃN QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT


A. Những bước chuẩn bị.

Bồ Tát Quán Thế Âm đã khả hứa với chúng ta: “Nếu hành giả có thể tụng trì đúng pháp -khởi lòng thương xót tất cả chúng sanh- lúc ấy ta sẽ sắc cho tất cả Thiện thần, Long vương, Kim Cang, Mật tích thường theo ủng hộ, không rời bên mình, như giữ gìn tròng con mắt hay thân mạng của chính họ “.

Như vậy, thế nào là tụng trì đúng pháp?

Trong phần hình trạng tướng mạo đã chỉ rõ mười đặc tính cốt yếu của Thần chú Đại Bi mà quan trọng hàng đầu là tâm Đại Từ Bi, cho nên mỗi lần trì tụng thần chú này hành giả phải bắt đầu hướng tâm vào việc quán tưởng khởi lòng thương xót tất cả chúng sanh. Một cách lý tưởng, để đạt được những công năng mà thần chú mang lại, trong thời gian trì tụng, hành giả phải giữ gìn giới hạnh, đặc biệt là sát, đạo, dâm, vọng. Phải kiêng cử rượu thịt, các thứ hành, hẹ, tỏi, cùng các thức ăn hôi hám. Tốt nhất là nên ăn chay.

Phải giữ vệ sinh thân thể, thường xuyên tắm gội, thay đổi y phục sạch sẽ, không nên để cho trong người có mùi hôi. Trước khi trì chú cũng phải đánh răng, súc miệng sạch sẽ, nếu trước đó có đi đại tiện, tiểu tiện thì phải rửa tay sạch sẽ trước khi trì tụng.Tóm lại, “Giữ gìn trai giới,ở nơi tịnh thất,tắm gội sạch sẽ, mặc y phục sạch, treo phan đốt đèn, dùng hương hoa cùng thực phẩm cúng dường, buộc tâm một chỗ”, đó là tất cả những điều kiện lý tưởng để hành giả trì chú Đại Bi. Tuy nhiên, như phần trên đã nói, Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ yêu cầu chúng ta hai điều mỗi khi trì tụng chú Đại Bi, đó là thành tâm và không mưu cầu những việc bất thiện. Điều này cho phép hành giả có thể trì tụng bất cứ lúc nào mà điều kiện cho phép. Trên xe, trên tàu, trên máy bay, tại sở làm, tại nhà… Với tâm thành, tâm chúng ta lúc đó sẽ hòa nhập vào lời trì tụng đểø cùng thể nhập vào pháp giới, mười phương chư Phật. Bơỉ vì Bồ Tát đã cho chúng ta biết, mỗi lần trì tụng thần chú Đại Bi, thập phương chư Phật đều đến chứng minh.

Bàn thờ.

Hành giả nên có một phòng riêng yên tỉnh để lập bàn thờ Bồ tát. Bàn thờ nên có hình tượng Bồ Tát ngàn tay, ngàn mắt. Nếu không có thì có thể sử dụng bất cứ hình tượng Bồ Tát Quán Thế Âm nào mà mình hiện có. Hình tượng Bồ Tát nên để day mặt về hướng Tây. Trên bàn thờ tuy không bắt buộc nhưng nên có hoa tươi, trái cây, lư hương để cắm nhang, nước cúng. Nên để đèn sáng mỗi khi hành lễ.

Cách thức ngồi, lạy :

Mỗi người nên có một tọa cụ, hoặc đơn giản hơn, một miếng vải sạch hay khăn bông xếp lại để làm chỗ tọa thiền. Hành giả nên ngồi theo cách thức kiết già nhưng nếu gặp khó khăn thì có thể ngồi theo cách thức bán già (ngồi xếp bằng, chân phải gác lên chân trái hay ngược lại), lòng bàn tay để ngữa hướng lên trên, bàn tay mặt để lên trên bàn tay trái, hai đầu ngón cái đụng vào nhau. Mắt nên mở hé, nếu nhắm hẵn thì dễ rơi vào trạng thái hôn trầm, nếu mở lớn thì khó định tâm.

Lạy là nghi thức biểu lộ sự cung kính, tôn trọng. Mỗi thời đại có một cung cách khác nhau để biểu lộ sự tôn trọng. Lối lạy kiểu cũ theo cách thức của người Trung Hoa có nhiều điểm rất bất tiện, không thích hợp cho không khí thiền đường. Trước hết, với kiểu lạy này, khi hành lễ mỗi người chiếm một khoảng diện tích đáng kể đủ để có thể đứng và qùy xuống lạy, gây trở ngại cho những thiền đường nhỏ. Việc đứng lên qùy xuống gây ra những tiếng động của động tác, tiếng sột soạt của quần áo, những động tác này cũng có thể làm phóng ra những bụi bặm, vi trùng mà ta mang trên quần áo, những mùi hôi của cơ thể – nhất là trong những xứ khí hậu nóng nực-, làm mất vệ sinh, gây ô nhiễm môi trường ta cần có để thở. Chưa kể là việc đứng lên qùy xuống lộn xộn trong những tư thế rất khó coi… Cho nên, chúng ta có thể thực hành một cách lạy tương đối đơn giản trong khi hành lễ, là thiền sinh cứ ngồi theo tư thế hành thiền, kiết già hay bán già, khi lạy chỉ cúi gập đầu xuống sàn phía trước, kéo dài tư thế này một khoảng thời gian ngắn đủ để niệm một câu “Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm BồTát”, xong ngồi dậy.

Cách thức tụng đọc :

Chú Đại Bi phải nên được trì tụng lớn tiếng, giọng điệu trầm hùng, nhanh và liên tục bằng cách lấy hơi từ bụng ra. Lớn tiếng ở đây không có nghĩa là ta phải la lớn lên, nhưng giọng đọc phải rõ ràng, nghe đủ tiếng, không lờ mờ, trại giọng.

Kinh “Nghiệp Báo Sai Biệt” cho biết việc niệm Phật, tụng kinh, trì chú lớn tiếng có mười công đức sau đây :

1.Dẹp được sự buồn ngủ ám ảnh
2.Thiên ma hoảng sợ.
3.Tiếng vang khắp mười phương
4.Ba đường hết khổ
5.Tiếng đời chẳng lọt vào tai
6.Lòng không tán loạn
7.Dõng mãnh tinh tấn
8.Chư Phật vui mừng
9.Tam muội hiện ra trước mắt
10.Vãng sanh Tịnh Độ

Thật sự, ta cũng sẽ không lo ngại cơn buồn ngủ ám ảnh. Bởi vì khi trì tụng chú Đại Bi, các vị Thiên, Long, Hộ Pháp sẽ luôn ở bên cạnh ta, khi ta rơi vào cơn buồn ngủ, các Ngài sẽ giúp đánh thức ta -mà rồi qúy vị sẽ chứng nghiệm khi thực hành trì chú một cách nghiêm túc- bằng một âm thanh như tiếng sấm nổ ở trong đầu khiến ta hoảng hồn, giật mình tỉnh thức. Thông thường sau đó ta sẽ không còn (hoặc không dám) buồn ngủ nữa. Tuy nhiên, nếu việc này xảy ra một lần thứ hai trong buổi hành Thiền, điều này có nghĩa là thể xác ta quá mỏi mệt, ta nên xin phép được xả thiền để nghỉ ngơi.

Tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt phải tụng thầm chỉ riêng cho mình nghe, hoặc chỉ nhép môi không ra tiếng như khi chúng ta đang làm việc, đi chung xe tàu với người khác, hoặc đi nằm trước khi ngủ.

B. Nghi Thức Hành Lễ

Hành giả nên tự mình sắp xếp thời khoá biểu thích hợp và cố định cho việc hành thiền tu tập của mình hằng ngày, vào buổi sáng hoặc buổi tối hoặc cả sáng lẫn tối. Đức Phật dạy rằng mỗi người nên hành thiền ngày hai buổi, buổi sáng sớm lúc mới rạng đông và buổ
i hoàng hôn lúc ngày chuyển qua đêm, còn nữa đêm thì nên thức dậy để đọc kinh. Đó là thời khóa biểu lý tưởng cho người tu tập, tuy nhiên nếu ta không có điều kiện thì chọn một thời khóa trong ngày cũng được. Thời gian lựa chọn để thiền định vào buổi sáng hay buổi tối rất quan trọng đối với mỗi cá nhân bởi vì có người chỉ hành thiền kết quả vào buổi sáng hoặc ngược lại. Kinh nghiệm cho thấy những người còn sống đời sống thế tục thì hành Thiền vào buổi sáng sớm kết quả hơn, bởi vì buổi tối sau một ngày làm việc, thể xác còn mệt mỏi, tâm hồn lại bị vướng mắc bởi bao nhiêu chuyện lo nghĩ từ chuyện gia đình đến chuyện sở làm … rất khó định tâm.

Ngoài ra, mỗi cuối tuần nên có một buổi hành lễ chung của những người trong nhóm; đây cũng là dịp để tự sám hối, trao đổi kinh nghiệm tu tập. Việc tu học sẽ tăng tiến nhanh chóng nếu ta có những bạn đồng tu, những thiện trí thức đúng nghĩa.

25/10/2008 Posted by | 4) TỊNH ĐỘ TÔNG, 5) THIỀN TÔNG, 6) MẬT TÔNG | Bình luận về bài viết này

PHƯƠNG PHÁP NIỆM PHẬT TÂM BẤT LOẠN

NAM MÔ TÂY PHƯƠNG AN LẠC

THẾ GIỚI ĐẠI TỪ ĐẠI BI A DI ĐÀ PHẬT

Để được “Nhất tâm bất loạn”, người tu chỉ cần Chú ý kỹ và mạnh hơn một chút, rồi một chút nữa (cái khéo của người tu nằm tại chỗ này) cho đến khi nào thấy không có một ý nghĩ nào khởi lên hay xẹt ra được nữa, chỉ còn lại 4 chữ A Di Đà Phật mà thôi. Như vậy, là niệm Phật được “Nhất tâm bất loạn” rồi đấy.
[Xem hình lớn]

Trong kinh Tiểu bổn A Di Đà, đức Phật có dạy: “Muốn được vãng sanh về Tịnh Độ của đức Phật A Di Đà, người tu phải đáp ứng đủ ba điều kiện dưới đây:

1. Phước đức và căn lành phải lớn (Nguyên văn: Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên đắc sanh bỉ quốc).

2. Niệm Phật cho được “Nhất tâm bất loạn” từ một ngày cho tới 7 ngày, (Nguyên văn: Chấp trì danh hiệu, nhược nhứt nhựt, nhược nhị nhựt, nhược tam nhựt, nhược tứ nhựt, nhược ngũ nhựt, nhược lục nhựt, nhược thất nhựt “Nhất tâm bất loạn”).

3. Khi sắp lâm chung tâm không điên đảo. (Nguyên văn: Kỳ nhân lâm mạng chung thời. A Di Đà Phật dữ chư Thánh chúng hiện tại kỳ tiền, thị nhân chung thời, tâm bất điên đảo (= không loạn động), tức đắc Vãng sanh A Di Đà Phật, Cực Lạc quốc độ)”.

Để đáp ứng cho một trong ba điều kiện nêu trên, chúng tôi hân hạnh giới thiệu “Phương pháp niệm Phật để được Nhất tâm bất loạn” như sau:

1. Ngồi kiết già hay bán già hoặc xếp bằng.

2. Hai mắt nhắm lại (vừa khít thôi).

3. Không quán tưởng.

4. Không nhớ đến Phật và Bồ Tát.

5. Không lần chuổi.

6. Trong tâm liên tục mặc niệm (niệm thầm trong tâm) bốn chữ “A Di Đà Phật” hay sáu chữ “Nam mô A Di Đà Phật”, mỗi chữ khoảng 1 giây đồng hồ.

7. Trong khi đang mặc niệm bốn chữ A Di Đà Phật, người tu dùng con mắt tâm (tâm nhãn) quan sát trong thân (từ hai vai xuống tới rún) xem coi bốn chữ A Di Đà Phật khởi lên ở chỗ nào. Khi nước tâm (tâm thủy) lóng trong, người tu sẽ thấy được Điểm Niệm Phật (chỗ 4 chữ A Di Đà khởi lên).
(Chú ý: Nếu người tu mặc niệm vài ba câu rồi ngừng lại để tìm Điểm Niệm Phật thì không thể thấy được, vì Điểm Niệm Phật đã tan rồi. Phải vừa mặc niệm vừa tìm, mới thấy được).

8. Khi thấy được Điểm Niệm Phật rồi, người tu tập trung sự CHÚ Ý (CON MẮT TÂM) nhìn thẳng ngay vào Điểm Niệm Phật, giống như con mèo rình chuột vậy, không được lơi lỏng.

9. Trong khi vừa mặc niệm vừa chú ý, vừa chú ý vừa mặc niệm một cách miên mật (như mèo rình chuột), người tu sẽ phát hiện có ý nghĩ này hay ý nghĩ nọ (tạp niệm) khởi lên xen vào, thì nên biết rằng mình niệm Phật chưa được “Nhất tâm bất loạn”.

10. Để được “Nhất tâm bất loạn”, người tu chỉ cần Chú ý kỹ và mạnh hơn một chút, rồi một chút nữa (cái khéo của người tu nằm tại chỗ này) cho đến khi nào thấy không có một ý nghĩ nào khởi lên hay xẹt ra được nữa, chỉ còn lại 4 chữ A Di Đà Phật mà thôi. Như vậy, là niệm Phật được “Nhất tâm bất loạn” rồi đấy. (Chú ý: Đừng chú ý mạnh quá, sau khi nghỉ dụng công sẽ nặng đầu).
Pháp niệm Phật này còn có tên khác là “Pháp cột tâm một chỗ” (Chế tâm nhứt xứ) dù là người mới bắt đầu lần thứ nhất, chỉ cần một thời gian ngắn là có thể đạt đến chỗ “Nhất tâm bất loạn”.

Pháp này có hai tác dụng: thu hút vọng tưởng tạp niệm và tẩy rửa tâm linh sạch sẽ. Do đó, người mới bắt đầu tu tập mỗi lần dụng công chừng nửa giờ (30 phút), ngày vài lần, cộng chung lại khoảng hai, ba tiếng đồng hồ là được. Còn những người đã từng ngồi được từ một tiếng đồng hồ trở lên, thì mỗi lần dụng công từ 50 đến 60 phút, tổng cộng đúng 3 giờ hay 4 giờ, dành cho một ngày.

Đã có rất nhiều người nhờ tu pháp này mà được lợi ích thiết thực trong việc tu hành. Nếu như có vị nào không tin, hãy thử tu thử vài tuần lễ xem sao, vì đâu có tốn đồng xu cắc bạc nào mà sợ.

Ghi chú:
– Mặc niệm hay niệm thầm trong tâm là tu trong tâm. Còn mở miệng niệm Phật là lìa tâm mà tu.
– Nhắm mắt thấy tâm, mở mắt thấy cảnh.

===================================================
Nguồn trang nhà http://chuahoangphap.com.vn/


18/10/2008 Posted by | 4) TỊNH ĐỘ TÔNG | Bình luận về bài viết này

LỜI KHAI THỊ NIỆM PHẬT CỦA ẤN QUANG ĐẠI SƯ

ẤN QUANG ĐẠI SƯ

LỜI KHAI THỊ CỦA ẤN QUANG ĐẠI SƯ

•Bất luận là người tu tại gia hay xuất gia, cần phải trên kính dười hòa, nhẫn nhục đìều mà người khác khó nhẫn được, làm những việc mà người khác khó làm được, thay người làm những việc cực nhọc hoàn thành cho người là việc tốt.

•Khi tỉnh tọa thường nghĩ đến điều lỗi của mình.

•Lúc nhàn đàm đừng bàn đến điều sai trái của người.

•Lúc đi, lúc đứng, lúc nằm, lúc ngồi, lúc ăn, lúc mặc, từ sáng đến tối, từ tối đến sáng chỉ niệm Phật hiệu không để gián đoạn, hoặc niệm nho nhỏ hoặc niệm thầm.

•Ngoài việc niệm phật, đừng dấy khởi một niệm nào khác. Nếu khởi vọng niệm phải tức thời bỏ ngay.

•Thường có lòng hổ thẹn và tâm sám hối.

•Nếu đã tu hành phải tự hiểu là công phu phước đức của ta hải còn nông cạn, chẳng nên tự kiêu căng, khoa trương.

•Chỉ nên chăm sóc việc nhà mình, đừng nên dính vào việc nhà người.

•Chỉ nên nhìn đến những hình dạng tốt đẹp, đừng để mắt tới những hình dạng xấu xa bại hoại.

•Hãy xem mọi người như là bồ tát, mà ta chỉ là phàm phu.

•Nếu quả có thể tu hành được như vậy, thì nhất định được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

27/09/2008 Posted by | 4) TỊNH ĐỘ TÔNG, f) TỊNH ĐỘ HỌC | Bình luận về bài viết này

PHƯƠNG PHÁP NIỆM PHẬT ĐỂ ĐƯỢC NHẤT TÂM BẤT LOẠN

Để được “Nhất tâm bất loạn”, người tu chỉ cần Chú ý kỹ và mạnh hơn một chút, rồi một chút nữa (cái khéo của người tu nằm tại chỗ này) cho đến khi nào thấy không có một ý nghĩ nào khởi lên hay xẹt ra được nữa, chỉ còn lại 4 chữ A Di Đà Phật mà thôi. Như vậy, là niệm Phật được “Nhất tâm bất loạn” rồi đấy.

Trong kinh Tiểu bổn A Di Đà, đức Phật có dạy: “Muốn được vãng sanh về Tịnh Độ của đức Phật A Di Đà, người tu phải đáp ứng đủ ba điều kiện dưới đây:

1. Phước đức và căn lành phải lớn (Nguyên văn: Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên đắc sanh bỉ quốc).

2. Niệm Phật cho được “Nhất tâm bất loạn” từ một ngày cho tới 7 ngày, (Nguyên văn: Chấp trì danh hiệu, nhược nhứt nhựt, nhược nhị nhựt, nhược tam nhựt, nhược tứ nhựt, nhược ngũ nhựt, nhược lục nhựt, nhược thất nhựt “Nhất tâm bất loạn”).

3. Khi sắp lâm chung tâm không điên đảo. (Nguyên văn: Kỳ nhân lâm mạng chung thời. A Di Đà Phật dữ chư Thánh chúng hiện tại kỳ tiền, thị nhân chung thời, tâm bất điên đảo (= không loạn động), tức đắc Vãng sanh A Di Đà Phật, Cực Lạc quốc độ)”.

Để đáp ứng cho một trong ba điều kiện nêu trên, chúng tôi hân hạnh giới thiệu “Phương pháp niệm Phật để được Nhất tâm bất loạn” như sau:

1. Ngồi kiết già hay bán già hoặc xếp bằng.

2. Hai mắt nhắm lại (vừa khít thôi).

3. Không quán tưởng.

4. Không nhớ đến Phật và Bồ Tát.

5. Không lần chuổi.

6. Trong tâm liên tục mặc niệm (niệm thầm trong tâm) bốn chữ “A Di Đà Phật” hay sáu chữ “Nam mô A Di Đà Phật”, mỗi chữ khoảng 1 giây đồng hồ.

7. Trong khi đang mặc niệm bốn chữ A Di Đà Phật, người tu dùng con mắt tâm (tâm nhãn) quan sát trong thân (từ hai vai xuống tới rún) xem coi bốn chữ A Di Đà Phật khởi lên ở chỗ nào. Khi nước tâm (tâm thủy) lóng trong, người tu sẽ thấy được Điểm Niệm Phật (chỗ 4 chữ A Di Đà khởi lên).
(Chú ý: Nếu người tu mặc niệm vài ba câu rồi ngừng lại để tìm Điểm Niệm Phật thì không thể thấy được, vì Điểm Niệm Phật đã tan rồi. Phải vừa mặc niệm vừa tìm, mới thấy được).

8. Khi thấy được Điểm Niệm Phật rồi, người tu tập trung sự CHÚ Ý (CON MẮT TÂM) nhìn thẳng ngay vào Điểm Niệm Phật, giống như con mèo rình chuột vậy, không được lơi lỏng.

9. Trong khi vừa mặc niệm vừa chú ý, vừa chú ý vừa mặc niệm một cách miên mật (như mèo rình chuột), người tu sẽ phát hiện có ý nghĩ này hay ý nghĩ nọ (tạp niệm) khởi lên xen vào, thì nên biết rằng mình niệm Phật chưa được “Nhất tâm bất loạn”.

10. Để được “Nhất tâm bất loạn”, người tu chỉ cần Chú ý kỹ và mạnh hơn một chút, rồi một chút nữa (cái khéo của người tu nằm tại chỗ này) cho đến khi nào thấy không có một ý nghĩ nào khởi lên hay xẹt ra được nữa, chỉ còn lại 4 chữ A Di Đà Phật mà thôi. Như vậy, là niệm Phật được “Nhất tâm bất loạn” rồi đấy. (Chú ý: Đừng chú ý mạnh quá, sau khi nghỉ dụng công sẽ nặng đầu).
Pháp niệm Phật này còn có tên khác là “Pháp cột tâm một chỗ” (Chế tâm nhứt xứ) dù là người mới bắt đầu lần thứ nhất, chỉ cần một thời gian ngắn là có thể đạt đến chỗ “Nhất tâm bất loạn”.

Pháp này có hai tác dụng: thu hút vọng tưởng tạp niệm và tẩy rửa tâm linh sạch sẽ. Do đó, người mới bắt đầu tu tập mỗi lần dụng công chừng nửa giờ (30 phút), ngày vài lần, cộng chung lại khoảng hai, ba tiếng đồng hồ là được. Còn những người đã từng ngồi được từ một tiếng đồng hồ trở lên, thì mỗi lần dụng công từ 50 đến 60 phút, tổng cộng đúng 3 giờ hay 4 giờ, dành cho một ngày.

Đã có rất nhiều người nhờ tu pháp này mà được lợi ích thiết thực trong việc tu hành. Nếu như có vị nào không tin, hãy thử tu thử vài tuần lễ xem sao, vì đâu có tốn đồng xu cắc bạc nào mà sợ.

Ghi chú:
– Mặc niệm hay niệm thầm trong tâm là tu trong tâm. Còn mở miệng niệm Phật là lìa tâm mà tu.
– Nhắm mắt thấy tâm, mở mắt thấy cảnh.
Tác giả: Tỳ kheo Thích Thanh Phước

==============
Theo Chùa Hoằng Pháp

27/06/2008 Posted by | 4) TỊNH ĐỘ TÔNG | Bình luận về bài viết này